TS. Nguyễn Văn Long: Nghị quyết số 57-NQ/TW và bước ngoặt thể chế - Đưa khoa học công nghệ từ “phụ trợ” thành “chủ lực”

02/06/2025

TN&MTLần đầu tiên, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được khẳng định là động lực trung tâm trong chiến lược phát triển đất nước, với những cam kết mạnh mẽ về thể chế tại Nghị quyết số 57-NQ/TW. Trao đổi với phóng viên, TS. Nguyễn Văn Long - Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng đây là bước ngoặt chính sách có tính nền tảng, tạo cơ hội để khoa học thoát khỏi vai trò “phụ trợ” và bước lên vị thế “chủ lực”.

Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ Tư đang diễn ra mạnh mẽ, khoa học và công nghệ ngày càng khẳng định vai trò then chốt trong sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước. Nhằm cụ thể hóa định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ gắn với yêu cầu thực tiễn, ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đây là dấu mốc quan trọng, thể hiện quyết tâm chính trị cao của Đảng trong việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào các ngành, lĩnh vực thiết yếu, trong đó có nông nghiệp và môi trường - nhằm hướng tới một nền kinh tế xanh, tuần hoàn, hiện đại và bền vững.

TS. Nguyễn Văn Long 

Trong phạm vi bài viết này, TS. Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã tập trung phân tích những nội dung cốt lõi của Nghị quyết số 57-NQ/TW và làm rõ ý nghĩa, định hướng triển khai trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường - 02 lĩnh vực đóng vai trò trụ cột trong phát triển kinh tế nông nghiệp, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu tại Việt Nam và chủ động hội nhập quốc tế.

Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường điện tử xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện ngay sau đây.

PV: Thưa ông, ông đánh giá như thế nào về tầm quan trọng của Nghị quyết số 57-NQ/TW trong định hướng phát triển nông nghiệp và môi trường trong giai đoạn tới?

TS. Nguyễn Văn Long:

Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (gọi tắt là Nghị quyết số 57-NQ/TW) được ban hành khi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống xã hội, giữ vai trò dẫn dắt xu thế phát triển mới của các quốc gia trên thế giới. Đối với ngành Nông nghiệp và Môi trường, Nghị quyết số 57-NQ/TW càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi toàn ngành đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn như: Tình trạng cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường, an ninh nguồn nước, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh…; các mô hình sản xuất nông nghiệp truyền thống, dựa vào lao động thủ công, chi phí đầu vào lớn, giá trị gia tăng thấp không còn phù hợp, trong khi chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, phát triển nông nghiệp tuần hoàn, đa giá trị đã trở thành xu thế tất yếu.

Nghị quyết số 57 đã đưa ra cách tiếp cận mở, vận dụng sáng tạo, cho phép thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra; chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm và độ trễ trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo.

Toàn ngành Nông nghiệp và Môi trường đã có nhiều nỗ lực phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, từ các mô hình nông nghiệp công nghệ cao, tuần hoàn, chăn nuôi thú y thông minh, cho đến giám sát môi trường tự động, xây dựng, số hóa cơ sở dữ liệu đất đai, rừng và khí tượng thủy văn,… Ước tính, khoa học và công nghệ đã đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, chắp cánh cho nông sản Việt vươn tới trên 200 quốc gia, vùng lãnh thổ và đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu nông, lâm, thủy sản lớn thứ 2 Đông Nam Á và thứ 15 thế giới. Tuy nhiên, muốn thay đổi cục diện, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng của sản phẩm nông, lâm, thủy sản, đồng thời bảo vệ môi trường sống cho hôm nay và các thế hệ sau - bắt buộc phải đổi mới tư duy và cách làm, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm nền tảng quan trọng, then chốt cho phát triển nhanh, bền vững theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW.

PV: Theo ông, điểm nhấn và nội dung cốt lõi của Nghị quyết số 57-NQ/TW trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường là gì, thưa ông?

TS. Nguyễn Văn Long:

Những nội dung cốt lõi từ Nghị quyết số 57-NQ/TW liên quan đến ngành Nông nghiệp và Môi trường đã được nêu ra rất cụ thể, đó là:

Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp, từ sản xuất giống, canh tác, thu hoạch đến chế biến và tiêu thụ; Khuyến khích phát triển các mô hình nông nghiệp thông minh, ứng dụng AI, IoT, dữ liệu lớn (big data) để tối ưu hóa năng suất và giảm thiểu tác động môi trường. Phát triển các chuỗi giá trị nông nghiệp số và nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu.

Chuyển đổi số ngành môi trường: Số hóa dữ liệu tài nguyên, môi trường, xây dựng cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia, phục vụ giám sát, quản lý và cảnh báo ô nhiễm. Tăng cường ứng dụng công nghệ trong quan trắc, giám sát tự động chất lượng không khí, nước, đất và rác thải. Thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, gắn kết giữa chuyển đổi số và bảo vệ môi trường.

Xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp - môi trường: Khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã, viện nghiên cứu và trường đại học tham gia xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường. Hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm nghiên cứu - ứng dụng công nghệ phục vụ nông nghiệp xanh, bền vững. Đẩy mạnh liên kết giữa nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nông dân trong quá trình ứng dụng khoa học công nghệ.

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng nghiên cứu, ứng dụng và vận hành công nghệ cao, công nghệ số trong nông nghiệp - môi trường. Hỗ trợ đào tạo lại, nâng cao kỹ năng số cho nông dân, cán bộ quản lý nông nghiệp, tài nguyên, môi trường.

Hoàn thiện thể chế, chính sách: Rà soát, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp và môi trường. Tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế tài chính, tín dụng, thuế cho các doanh nghiệp đầu tư vào khoa học công nghệ trong nông nghiệp - môi trường.

Nghị quyết số 57-NQ/TW nhấn mạnh vai trò then chốt của khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững, hiện đại của các ngành kinh tế - trong đó có nông nghiệp và môi trường. Việc thực hiện hiệu quả các định hướng của Nghị quyết sẽ góp phần quan trọng vào mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0.

PV: Nghị quyết số 57-NQ/TW đã nhấn mạnh vai trò then chốt của khoa học và công nghệ, vậy Vụ Khoa học và Công nghệ có những định hướng cụ thể nào để hiện thực hóa điều này trong ngành Nông nghiệp và Môi trường, thưa ông?

TS. Nguyễn Văn Long:

Thứ nhất, chủ động, tích cực phối hợp tham mưu để tập trung tháo gỡ kịp thời các điểm nghẽn về thể chế, chính sách, thủ tục hành chính; phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành liên quan để rà soát, sửa đổi, đề xuất bãi bỏ những quy định không còn phù hợp: về ngân sách, đầu tư công, thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ. Bổ sung cơ chế, chính sách để phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số ở khu vực tư nhân, các doanh nghiệp, hợp tác xã, người nông dân. Sớm hình thành quỹ phát triển khoa học, công nghệ của ngành Nông nghiệp và Môi trường, để chủ động nguồn lực cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ. Có cơ chế linh hoạt trong đặt hàng nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu để áp dụng rộng rãi vào thực tiễn.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn quốc gia thuộc ngành Nông nghiệp và Môi trường theo hướng hội nhập, hài hòa hóa với thông lệ quốc tế, phù hợp với thực tiễn phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho nâng cao chất lượng, giá trị xuất khẩu hàng hóa nông sản, nhất là thị trường các nước phát triển.

Thứ hai, tham mưu chỉ đạo đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp: Ưu tiên công nghệ sinh học, công nghệ gen, trí tuệ nhân tạo (AI), cảm biến IoT và Big Data vào sản xuất nông nghiệp. Phát triển giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, thích ứng biến đổi khí hậu. Hỗ trợ phát triển nông nghiệp chính xác, nông nghiệp thông minh.

Tham mưu chỉ đạo lựa chọn một số lĩnh vực ưu tiên để đầu tư nghiên cứu trọng tâm, trọng điểm nhằm tạo ra sự phát triển đột phá của Ngành như: Công nghệ sinh học, công nghệ gen, lựa chọn giống, sản xuất vắc - xin, công nghệ nuôi biển, quy trình canh tác thông minh, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ sau thu hoạch, nông nghiệp số,… Tập trung nghiên cứu các giải pháp sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn lực tài nguyên đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, nhất là tài nguyên đất, nước, khoáng sản, đặc biệt là khoáng sản chiến lược. Các giải pháp về phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm môi trường, nhất là môi trường tại các đô thị, khu công nghiệp, lưu vực sông, làng nghề, khu chăn nuôi tập trung; phát triển hệ thống hạ tầng thủy lợi thông minh; các công nghệ, giải pháp tiên tiến, hiện đại về dự báo, cảnh báo, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu…

Thứ ba, phối hợp tham mưu chỉ đạo thúc đẩy chuyển giao và thương mại hóa kết quả nghiên cứu bằng việc liên kết chặt chẽ giữa viện nghiên cứu, trường đại học với doanh nghiệp, hợp tác xã. Xây dựng cơ chế đặt hàng nghiên cứu theo nhu cầu thực tế của thị trường và doanh nghiệp. Khuyến khích khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.

Thứ tư, phối hợp tham mưu chỉ đạo tổ chức lại hệ thống các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ của Ngành theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả và tự chủ thực chất; xây dựng các đơn vị nghiên cứu có năng lực cạnh tranh, có đối tác xã hội hóa, có khả năng kết nối doanh nghiệp, mang tính tổng thể với tầm nhìn trung hạn và dài hạn; thúc đẩy mô hình “Vườn ươm đổi mới sáng tạo”, kết nối công nghệ, thành lập mạng lưới chuyên gia ngành Nông nghiệp và Môi trường trong và ngoài nước.

Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng nghiên cứu và thử nghiệm: Xây dựng và nâng cấp hệ thống phòng thí nghiệm, khu nông nghiệp công nghệ cao, trạm thực nghiệm vùng sinh thái. Hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo nông nghiệp theo vùng, miền.

Đồng thời, đổi mới toàn diện quy trình đặt hàng, xét duyệt, nghiệm thu nhiệm vụ khoa học, công nghệ. Theo đó, áp dụng cơ chế đấu thầu, đặt hàng nhiệm vụ khoa học, công nghệ bảo đảm công khai, minh bạch, cạnh tranh, áp dụng cho cả khu vực công và khu vực tư. Đặc biệt, các nhiệm vụ khoa học, công nghệ phải xuất phát từ yêu cầu quản lý nhà nước, từ thực tiễn đời sống, sản xuất, nhu cầu của người dân và doanh nghiệp; xem xét các danh mục “đặt hàng mở” để huy động sự tham gia rộng rãi của các chủ thể mà không phân biệt khu vực công - tư.

Thứ năm, tập trung đào tạo, phát triển và thu hút nguồn nhân lực khoa học, công nghệ chất lượng cao; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, các viện nghiên cứu, trường đại học để xây dựng các chương trình đào tạo tiên tiến, phù hợp với nhu cầu của thực tiễn phát triển. Có cơ chế thu hút, khuyến khích đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, trí thức giỏi trong nước và quốc tế, đặc biệt phát huy được vai trò, sự tham gia của đội ngũ nhân lực làm khoa học, công nghệ từ khu vực tư nhân, các doanh nghiệp, hiệp hội để tạo nên một hệ sinh thái nhân lực năng động, sáng tạo, gắn bó với hoạt động khoa học, công nghệ và sự phát triển của Ngành.

Thứ sáu, tập trung thực hiện chuyển đổi số toàn diện và thực chất, không chỉ là số hóa thông tin mà đẩy mạnh xây dựng các nền tảng quản trị dữ liệu dùng chung, bản đồ số chuyên ngành và các hệ thống dự báo, cảnh báo thông minh.

Phát triển hệ thống dữ liệu và chuyển đổi số: Ứng dụng dữ liệu lớn (big data), công nghệ GIS và viễn thám phục vụ quy hoạch nông nghiệp, phòng chống thiên tai, và bảo vệ môi trường. Triển khai cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai, cây trồng, vật nuôi, nguồn gen. Hướng tới xây dựng bản đồ số hóa sản xuất và chất lượng nông sản.

Thứ bảy, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững: Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ xử lý chất thải nông nghiệp, phân bón hữu cơ từ phụ phẩm. Ứng dụng công nghệ xanh trong canh tác để giảm phát thải khí nhà kính. Đẩy mạnh phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp.

Thứ tám, hợp tác quốc tế và hội nhập: Mở rộng hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ với các tổ chức quốc tế, đối tác nước ngoài. Tiếp thu công nghệ tiên tiến từ các nước phát triển và điều chỉnh phù hợp với điều kiện trong nước.

Nghị quyết số 57: “Chìa khóa vàng” đưa Việt Nam vào Kỷ nguyên mới

PV: Xin ông cho biết, trong thời gian qua, ngành Nông nghiệp và Môi trường đã ứng dụng những tiến bộ khoa học - công nghệ nào nổi bật và tác động của chúng ra sao đến năng suất, chất lượng và phát triển bền vững?

TS. Nguyễn Văn Long:

Ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp có nhiều tiến bộ như phát triển giống cây trồng biến đổi gen (GMO), giống lai tạo có năng suất cao, chống chịu sâu bệnh, chịu hạn mặn và những điều kiện bất thuận; Ứng dụng vi sinh vật có ích trong phân bón, thuốc bảo vệ thực vật sinh học.

Những tiến bộ này có tác động rất tốt đến tăng năng suất cây trồng từ 10 -30%; giảm lượng phân bón và thuốc trừ sâu hóa học, góp phần bảo vệ môi trường; cải thiện chất lượng nông sản, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu.

Nông nghiệp chính xác đã ứng dụng cảm biến, thiết bị bay không người lái (drone), hệ thống GPS, phần mềm phân tích dữ liệu lớn (Big Data) và AI trong quản lý đồng ruộng. Hệ thống tưới tiêu và bón phân tự động điều khiển qua smartphone.

Những tiến bộ này đã tối ưu hóa lượng đầu vào (nước, phân, thuốc), giảm chi phí và tác động môi trường. Theo dõi sát tình trạng cây trồng, tăng hiệu quả canh tác và khả năng ứng phó biến đổi khí hậu.

Công nghệ nhà kính, nhà màng, thủy canh, khí canh đã có những mô hình trồng cây không dùng đất (thủy canh, khí canh); Điều khiển vi khí hậu tự động trong nhà kính/nhà màng. Công nghệ này đã cho năng suất gấp 3–5 lần so với canh tác truyền thống. Tiết kiệm nước, kiểm soát sâu bệnh tốt hơn, đảm bảo chất lượng sản phẩm sạch.

Ứng dụng công nghệ blockchain và truy xuất nguồn gốc: Sử dụng mã QR, blockchain để ghi nhận thông tin chuỗi sản xuất - cung ứng sản phẩm. Việc này tăng tính minh bạch, giúp người tiêu dùng tin tưởng sản phẩm. Hỗ trợ nông sản đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, nhất là vào thị trường khó tính (EU, Mỹ, Nhật Bản).

Công nghệ xử lý chất thải, tuần hoàn nông nghiệp, sử dụng công nghệ sinh học xử lý phụ phẩm nông nghiệp (ủ phân hữu cơ, sản xuất khí sinh học - biogas). Mô hình nông nghiệp tuần hoàn: kết hợp trồng trọt - chăn nuôi - thủy sản. Công nghệ này đã giúp giảm ô nhiễm môi trường nông thôn, tận dụng phụ phẩm. Tăng thu nhập và phát triển bền vững cho hộ nông dân.

Giám sát môi trường bằng công nghệ số: Sử dụng cảm biến IoT, vệ tinh, GIS để theo dõi chất lượng không khí, nước, đất và biến động môi trường. Phát hiện sớm rủi ro môi trường như xâm nhập mặn, hạn hán, ô nhiễm nước. Hỗ trợ ra quyết định trong quy hoạch nông nghiệp và ứng phó biến đổi khí hậu.

Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ hiện đại trong nông nghiệp và môi trường không chỉ giúp tăng năng suất, chất lượng nông sản mà còn góp phần quan trọng vào bảo vệ môi trường và phát triển nông nghiệp theo hướng xanh - sạch - bền vững. Đây là xu hướng tất yếu trong bối cảnh biến đổi khí hậu và yêu cầu cao từ thị trường toàn cầu.

PV: Ông có thể chia sẻ một số mô hình điển hình trong việc ứng dụng khoa học - công nghệ trong sản xuất nông nghiệp hoặc xử lý môi trường, thưa ông?

TS. Nguyễn Văn Long:

Trong nông nghiệp

Nông nghiệp thông minh đã sử dụng công nghệ sử dụng: Internet vạn vật (IoT), cảm biến môi trường, máy bay không người lái (drone), hệ thống tự động tưới và bón phân. Ví dụ điển hình như mô hình nhà kính thông minh tại Lâm Đồng (Đà Lạt) sử dụng cảm biến để điều chỉnh nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng. Hợp tác xã tại Hà Nội sử dụng drone để phun thuốc trừ sâu tự động trên diện rộng.

Ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất giống như nhân giống mô, lai tạo giống kháng bệnh, biến đổi gen (trong giới hạn pháp luật). Ví dụ điển hình như: Viện Di truyền nông nghiệp đã chọn tạo được giống lúa chịu mặn, chịu hạn hay Công ty Vinaseed áp dụng công nghệ tiên tiến trong chọn tạo giống cây trồng.

Nông nghiệp hữu cơ kết hợp công nghệ cao đã sử dụng vi sinh vật hữu ích, phân bón sinh học, hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế (GlobalGAP, VietGAP). Ví dụ: Trang trại VinEco (thuộc Vingroup) áp dụng mô hình nông nghiệp sạch, không thuốc hóa học, sản xuất theo chuỗi.

Trong môi trường

Xử lý nước thải bằng công nghệ sinh học sử dụng màng lọc sinh học, vi sinh vật phân hủy hữu cơ. Ví dụ như mô hình xử lý nước thải sinh hoạt tại các làng nghề ở Bắc Ninh. Các hệ thống xử lý nước thải tập trung trong khu công nghiệp sử dụng công nghệ bio-reactor.

Tái sử dụng chất thải nông nghiệp đã sử dụng ủ sinh học để sản xuất phân hữu cơ, khí biogas từ chất thải chăn nuôi. Ví dụ như các trang trại nuôi bò, lợn ở Đồng Nai sử dụng hầm biogas để tạo điện, khí đun nấu hay Hợp tác xã tại An Giang sản xuất phân hữu cơ từ rơm rạ.

Ứng dụng AI và Big Data trong quản lý môi trường, công nghệ sử dụng cảm biến đo ô nhiễm không khí, hệ thống dữ liệu môi trường theo thời gian thực. Ví dụ, hệ thống quan trắc không khí của TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh giúp giám sát và cảnh báo kịp thời ô nhiễm.

PV: Việc liên kết giữa các viện nghiên cứu, doanh nghiệp và người nông dân hiện nay còn tồn tại những rào cản gì trong việc ứng dụng khoa học công nghệ? Theo ông, làm sao để tháo gỡ vấn đề này thưa ông?

TS. Nguyễn Văn Long:

Tôi cho rằng, rào cản hiện tại là thiếu cơ chế phối hợp hiệu quả, chính sách cụ thể để gắn kết viện - doanh nghiệp - nông dân. Vai trò và trách nhiệm giữa các bên không rõ ràng, dẫn đến tình trạng mạnh ai nấy làm.

Bên cạnh đó, khoảng cách giữa nghiên cứu và thực tiễn. Nhiều đề tài nghiên cứu mang tính hàn lâm, chưa gắn chặt với nhu cầu thực tế của nông dân/doanh nghiệp. Nông dân khó tiếp cận kết quả nghiên cứu do rào cản ngôn ngữ, kỹ thuật hoặc thiếu kênh chuyển giao.

Thiếu vốn và chính sách hỗ trợ, doanh nghiệp ngại đầu tư vào nông nghiệp vì rủi ro cao, lợi nhuận thấp. Nông dân không có khả năng tài chính để áp dụng công nghệ mới.

Các bên thường thiếu lòng tin vào nhau, nông dân không tin vào hiệu quả công nghệ; doanh nghiệp nghi ngờ khả năng phối hợp của nông dân; viện nghiên cứu thiếu thông tin thị trường. Thiếu nền tảng kết nối thông tin, diễn đàn hợp tác.

Hạn chế về nhân lực và trình độ, nông dân phần lớn có trình độ thấp, khó tiếp thu KHCN mới. Nhân lực trung gian (chuyển giao công nghệ, kỹ thuật viên...) còn thiếu và yếu.

PV. Vậy giải pháp nào để tháo gỡ, thưa ông?

TS. Nguyễn Văn Long:

Tôi cho rằng, nhà nước đóng vai trò “bà đỡ” tạo điều kiện để 3 nhà, nhà nghiên cứu - nhà doanh nghiệp - nhà nông, hợp tác thông qua các chương trình liên kết sản xuất, hợp tác công - tư, hoặc chuỗi giá trị nông sản.

Xây dựng các trung tâm chuyển giao KHCN, nơi tiếp nhận công nghệ từ viện nghiên cứu, hoàn thiện và ứng dụng công nghệ phù hợp với điều kiện sản xuất của nông dân. Đào tạo đội ngũ "cầu nối" am hiểu cả KHCN và chuyển giao công nghệ.

Khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào nghiên cứu ứng dụng, tạo điều kiện để doanh nghiệp đặt hàng viện nghiên cứu theo nhu cầu thực tế. Miễn/giảm thuế cho doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu, phát triển công nghệ trong nông nghiệp.

Hỗ trợ tài chính và nâng cao năng lực cho nông dân, tăng cường chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ vay vốn mua thiết bị, máy móc. Tổ chức tập huấn kỹ thuật, nâng cao trình độ cho nông dân.

Phát triển nền tảng số và chia sẻ thông tin, xây dựng cổng thông tin điện tử, ứng dụng di động để kết nối ba bên: cập nhật kỹ thuật mới, chia sẻ nhu cầu thị trường, phản hồi từ nông dân...

Sự liên kết giữa viện nghiên cứu - doanh nghiệp - nông dân là chìa khóa để đưa KHCN vào nông nghiệp một cách hiệu quả và bền vững. Tuy nhiên, để thành công, cần có cơ chế phối hợp rõ ràng, hạ tầng trung gian hỗ trợ, nguồn lực tài chính và nỗ lực xây dựng lòng tin giữa các bên.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Hồng Minh (thực hiện)

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Việt Nam kêu gọi tăng hỗ trợ tài chính cho các nước dễ tổn thương

Thắt chặt hợp tác nông nghiệp Việt - Mỹ: Hơn 600 triệu USD hợp đồng được ký kết tại Ohio

Hợp tác nông nghiệp Việt - Mỹ: Bước tiến chiến lược vì phát triển bền vững và an ninh lương thực toàn cầu

Tín hiệu tích cực từ sản xuất và thương mại nông sản 5 tháng đầu năm

Nông nghiệp

Thanh Hóa: Nỗ lực toàn diện xóa đói giảm nghèo vùng miền núi

Nông sản OCOP Bắc Ninh hút khách tại chợ phiên an toàn 2025

3 địa phương được công nhận cán đích nông thôn mới

Tháo gỡ vướng mắc trong giao khoán đất lâm nghiệp

Tài nguyên

Biển đảo Việt Nam 2025: Làn sóng công nghệ xanh đang trỗi dậy

Nhiều hoạt động hưởng ứng Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam, Ngày Đại dương thế giới năm 2025 tại Quảng Bình

Bắc Ninh siết chặt xử lý giao đất sai thẩm quyền 

Khẩn trương xây dựng đề án Trung tâm Quy hoạch và Điều tra đất đai

Môi trường

Tuổi trẻ Bắc Ninh tiên phong chống rác thải nhựa, lan tỏa lối sống xanh

Báo động đỏ ô nhiễm nhựa toàn cầu: Hồi chuông vang lên trong Ngày Môi trường Thế giới 5/6

An Giang bảo tồn các cây di sản

Trồng rừng giữ nước mùa mưa để hưởng ứng Ngày Môi trường Thế giới

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Học viện Nông nghiệp Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia: Môi trường nông nghiệp, nông thôn và phát triển bền vững lần 2

Bài 1: Ghi nhận một số thành tựu khoa học công nghệ trong lĩnh vực trồng trọt và bảo vệ thực vật

Nghiên cứu thiết kế hệ thống quan trắc trượt lở đất đá theo thời gian thực dựa trên công nghệ GNSS/CORS

TS. Nguyễn Văn Long: Nghị quyết số 57-NQ/TW và bước ngoặt thể chế - Đưa khoa học công nghệ từ “phụ trợ” thành “chủ lực”

Chính sách

Bắc Ninh tăng tốc đầu tư công, tháo gỡ điểm nghẽn từng dự án

Phải chặn buôn lậu từ gốc, ngay tại tuyến đầu

Thủ tướng yêu cầu tập trung ứng phó nguy cơ mưa lớn, sạt lở đất, lũ quét và chủ động phòng chống thiên tai

Công nhận 2 địa phương hoàn thành xây dựng nông thôn mới

Phát triển

Bắc Ninh - Bắc Giang bắt tay xây dựng Trung tâm Hành chính công không biên giới

Bắc Ninh tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn mới

Bắc Ninh ứng dụng công nghệ trong chăn nuôi: Hướng đi tất yếu cho nông nghiệp hiện đại

Lựa chọn đúng người, đúng việc trong sắp xếp bộ máy

Diễn đàn

Hội thảo “Thể chế, Quy hoạch - Cơ hội cho phát triển kinh tế biển xanh” tại Quảng Bình

Thời tiết ngày 6/6: Bắc Bộ ngày nắng, có nơi nắng nóng; Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông

Quảng Bình: Mít tinh phòng chống thiên tai, thích ứng biến đổi khí hậu

Lần đầu tiên Việt Nam triển khai kiểm định khí thải xe máy gây ô nhiễm không khí