
Bộ tứ trụ cột: Nền tảng cho mô hình phát triển mới
31/08/2025TN&MTViệt Nam đang đứng trước bước ngoặt lịch sử khi mô hình phát triển dựa vào lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên và đầu tư công dần chạm trần. Biến động toàn cầu ngày càng phức tạp, cạnh tranh địa chính trị leo thang, các chuẩn mực về công nghệ, thị trường, môi trường, pháp lý… đều thay đổi sâu sắc.
Bốn nghị quyết, bốn lời giải cùng tạo nên một thiết kế liên thông và tương hỗ. (Ảnh Khiếu Minh)
Trong bối cảnh đó, nếu không định hình lại mô hình phát triển, đất nước sẽ có nguy cơ tụt hậu, lỡ nhịp với thời đại và bỏ qua cơ hội vàng bứt phá.
Thiết kế liên thông và tương hỗ
Trong kiến trúc xây dựng, mọi công trình trường tồn đều cần những trụ cột vững chắc. Tương tự, trong kiến trúc phát triển quốc gia, một mô hình muốn ổn định về cấu trúc, bền vững về tầm nhìn và đủ sức vươn xa trong cạnh tranh toàn cầu cũng phải được nâng đỡ bởi những nền tảng kiên cố, có khả năng phân bố "tải trọng chiến lược" một cách hài hòa và hiệu quả.
Bốn nghị quyết quan trọng được Bộ Chính trị ban hành trong năm 2024 và 2025 hợp thành "bộ tứ trụ cột" chiến lược. Đây không phải là ứng phó tình thế, mà là kết quả của một hệ tư duy chiến lược nhất quán, thể hiện sự tự soi, tự sửa và khát vọng kiến tạo mô hình phát triển mới từ bên trong Đảng - chủ thể trung tâm lãnh đạo đất nước. Đằng sau mỗi nghị quyết là một câu hỏi căn bản mà quốc gia nào cũng phải đối diện, nếu muốn bước lên nấc thang phát triển cao hơn và Việt Nam đã chủ động tự đặt ra, để tự mình trả lời.
Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia xác lập khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là những động lực chủ đạo của thời đại mới - nghĩa là trực tiếp trả lời câu hỏi: Chúng ta sẽ phát triển bằng nguồn lực nào khi các lợi thế cũ đã dần suy giảm?
Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới mở ra tư duy hội nhập chủ động, toàn diện và nâng tầm ảnh hưởng - tức là đặt lại vấn đề: Chúng ta hội nhập để làm gì, theo cách nào và vị trí của Việt Nam trong thế giới đang tái định hình là gì?
Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, khơi thông điểm nghẽn thể chế - xác lập pháp quyền không chỉ là công cụ quản trị, mà là động lực phát triển, từ đó trả lời câu hỏi: Chúng ta tổ chức quyền lực ra sao, xây dựng luật pháp như thế nào để trở thành quốc gia có năng lực quản trị hiện đại?
Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân nhấn mạnh vai trò kinh tế tư nhân không chỉ như một khu vực kinh tế, mà là một chủ thể phát triển trung tâm - trả lời cho câu hỏi cốt lõi: Ai sẽ là người kiến tạo của cải, đổi mới sáng tạo và dẫn dắt nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới?
Bốn nghị quyết, bốn lời giải nhưng cùng tạo nên một thiết kế liên thông và tương hỗ. Không có sáng tạo thì không có động lực mới. Không hội nhập chủ động thì không có không gian phát triển và sẽ bị cuốn vào cuộc chơi do người khác định đoạt. Không cải cách thể chế, mọi khát vọng đổi mới sẽ bị mắc kẹt trong bộ máy trì trệ. Và nếu không đánh thức được khu vực tư nhân, đất nước sẽ thiếu lực đẩy đủ mạnh để chuyển mình từ “đang phát triển” sang “phát triển”.
Không một trụ cột nào có thể đứng vững nếu thiếu ba trụ còn lại. Nhưng khi cả bốn cùng được dựng lên, gắn kết thành một thể thống nhất, thì chúng sẽ nâng đỡ được cả một mô hình phát triển mới vừa hiện đại, vừa có bản sắc, vừa thích ứng linh hoạt, lại đủ nội lực để vượt qua những thách thức của thời đại.
Thúc đẩy những cải cách mang tính nền tảng
Trong kỷ nguyên số và công nghệ, quốc gia nào làm chủ tri thức, quốc gia đó dẫn dắt. Với Nghị quyết số 57, lần đầu tiên đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và khoa học-công nghệ được xác lập là đột phá chiến lược, động lực trọng yếu và trụ cột phát triển. Đây là đòn bẩy để đưa Việt Nam chuyển nhanh từ mô hình phát triển dựa vào tài nguyên sang mô hình dựa vào tri thức, sáng tạo và dữ liệu. Một bước chuyển căn bản về chất!
Không còn là hội nhập “bị động” hay “chạy theo”, Nghị quyết số 59 nhấn mạnh một bước tiến quan trọng: hội nhập phải “đồng bộ, toàn diện, sâu rộng”, trong đó các lĩnh vực phải gắn kết chặt chẽ, bổ sung cho nhau trong một chiến lược tổng thể, có trọng tâm, trọng điểm với lộ trình và bước đi phù hợp. Hội nhập không chỉ là thương mại mà là văn hóa, pháp lý, giáo dục, môi trường, an ninh phi truyền thống. Việt Nam phải nâng tầm năng lực ngoại giao chiến lược, nâng cao bản lĩnh của cán bộ làm chính sách đối ngoại và xây dựng năng lực phản ứng chính sách kịp thời trong bối cảnh toàn cầu biến động nhanh.
Không có thể chế tốt, không có phát triển bền vững. Nghị quyết số 66 chỉ rõ: “Công tác xây dựng và thi hành pháp luật phải được đổi mới căn bản, tạo động lực nhanh và mạnh mẽ cho sự phát triển bền vững đất nước”. Đây chính là trụ cột thể chế giúp các nghị quyết khác đi vào cuộc sống, đồng thời nâng cao năng lực điều hành, quản trị quốc gia theo hướng nhà nước pháp quyền hiện đại, kiến tạo và liêm chính.
Không một quốc gia nào trở nên giàu mạnh mà thiếu vắng khu vực tư nhân năng động. Nghị quyết 68 khẳng định: Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Nghị quyết yêu cầu xóa bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về kinh tế tư nhân, bảo đảm quyền kinh doanh bình đẳng, bảo vệ tài sản hợp pháp, hỗ trợ khởi nghiệp, cải cách thủ tục và khuyến khích các doanh nghiệp lớn đầu tư bài bản, đổi mới sáng tạo. Đây là một sự thức tỉnh chiến lược bởi phát triển quốc gia không thể chỉ trông vào khu vực công.
Bộ tứ trụ cột không chỉ là những định hướng cải cách đơn lẻ, mà hợp thành một kiến trúc chính sách tổng thể, có khả năng mở ra một kỷ nguyên phát triển vượt bậc cho Việt Nam.
Thứ nhất, bộ tứ trụ cột tạo điều kiện để chuyển đổi căn bản mô hình phát triển, từ tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào đầu tư, khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ sang tăng trưởng theo chiều sâu, lấy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, hội nhập chủ động và sức mạnh của khu vực tư nhân làm động lực chính. Đây không chỉ là sự dịch chuyển về phương pháp, mà là bước chuyển về đẳng cấp phát triển, từ học hỏi sang dẫn dắt, từ theo sau sang sáng tạo có chọn lọc.
Thứ hai, bộ tứ cung cấp hệ công cụ toàn diện để nâng tầm năng lực cạnh tranh quốc gia. Từ môi trường kinh doanh, năng lực thể chế, năng suất lao động đến chỉ số đổi mới sáng tạo và hiệu quả quản trị. Khi những “điểm nghẽn” được tháo gỡ trở thành “đòn bẩy”, Việt Nam có thể tự tin bước vào chuỗi giá trị toàn cầu ở những vị trí cao hơn, với hình ảnh một quốc gia năng động, minh bạch và đáng tin cậy.
Thứ ba, vai trò và vị thế quốc gia của Việt Nam trong trật tự khu vực và toàn cầu sẽ được tái định vị một cách tích cực và chủ động hơn bao giờ hết. Hội nhập không chỉ mở cửa để giao thương, mà là tham gia định hình luật chơi; không chỉ thích ứng, mà còn để tạo ảnh hưởng.
Thứ tư, bộ tứ nghị quyết chính là “bản thiết kế chính sách” cho khát vọng năm 2045 Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển, có thu nhập cao, có bản sắc văn hóa riêng và có vai trò tích cực trong thế giới nhiều cực. Nếu hình dung đất nước như một cỗ xe đổi mới, thì bộ tứ nghị quyết chính là “động cơ bốn xi-lanh” được đồng bộ hóa, giúp Việt Nam tăng tốc mạnh mẽ, bứt phá ngoạn mục và giữ vững hướng đi trên hành trình đến tương lai.
Biến bộ tứ trụ cột thành hiện thực đòi hỏi cả hệ thống chính trị vào cuộc, đặc biệt là Quốc hội và Chính phủ phải nhanh chóng cụ thể hóa, ban hành chính sách phù hợp và tổ chức thực thi hiệu quả. Đồng thời, các doanh nghiệp, người dân, trí thức, nhà khoa học cũng phải được khơi dậy tinh thần đổi mới, sáng tạo và đồng hành kiến tạo tương lai.
Việt Nam đang tự tin bước vào kỷ nguyên vươn mình. Và bộ tứ trụ cột này chính là nền móng vững chắc để dựng nên một mô hình phát triển mới hiện đại, năng động, hội nhập và đầy khát vọng.
Lịch sử mỗi dân tộc luôn có những bước ngoặt. Bộ tứ nghị quyết thể hiện trí tuệ tập thể của Đảng, là lời hiệu triệu cải cách, là lời hứa với tương lai và là "chìa khóa" hành động cho hiện tại.
Theo nhandan.vn