
PGS.TS Trần Minh Tiến: Để phát triển một nền nông nghiệp bền vững, chúng ta phải coi đất như một cơ thể sống
30/08/2025TN&MTĐất là nguồn tài nguyên quan trọng, là tư liệu sản xuất đặc biệt, không thể tái tạo trong sản xuất nông nghiệp, do đó cần có sự chăm sóc thường xuyên để ổn định và nâng cao sức khỏe đất trồng trọt, hướng tới nền nông nghiệp sinh thái, bền vững, tuần hoàn góp phần bảo vệ môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, thích ứng với biến đổi khí hậu… PGS.TS Trần Minh Tiến - Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Viện trưởng Viện Thổ nhưỡng Nông hóa đã chia sẻ với phóng viên Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường liên quan đến bảo vệ “sức khỏe của đất” đối với phát triển nông nghiệp.
PV: Như chúng ta đã biết, việc nâng cao sức khỏe đất trồng trọt và quản lý dinh dưỡng cây trồng là vấn đề không thể tách rời, bổ trợ cho nhau. Là đơn vị hàng đầu của ngành nông nghiệp và môi trường chuyên nghiên cứu về lĩnh vực đất trên phạm vi cả nước, xin ông cho biết, việc nâng cao sức khỏe của đất có ý nghĩa như thế nào?
PGS.TS Trần Minh Tiến:
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) định nghĩa sức khỏe đất "là khả năng của đất hoạt động như một hệ thống sống, có ranh giới hệ sinh thái và sử dụng đất, để duy trì năng suất thực vật và động vật, duy trì hoặc cải thiện chất lượng nước và không khí và thúc đẩy sức khỏe thực vật và động vật...". Điều này có nghĩa là, sức khỏe của đất có thể giúp duy trì năng suất thực vật và động vật cũng như đa dạng sinh học trong đất, duy trì hoặc nâng cao chất lượng nước và không khí, đồng thời hỗ trợ sức khỏe của con người và vật nuôi.
PGS.TS Trần Minh Tiến - Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Viện trưởng Viện Thổ nhưỡng Nông hóa
Có thể hiểu một cách đơn giản hơn, sức khỏe đất là độ phì nhiêu tự nhiên của đất (các tính chất lý, hóa, sinh học có sẵn trong đất) và độ phì nhiêu thực tế (các tác động bên ngoài lên đất như hoạt động canh tác làm đất, bón phân...) làm cho đất duy trì được năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, bảo tồn đa dạng sinh học.
Tại nhiều quốc gia, các nghiên cứu về sức khỏe đất đã được làm cơ sở cho chính sách quốc gia về đất, nông nghiệp và môi trường. Chẳng hạn như, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ đã triển khai khung đánh giá SMAF để phục vụ cho quản lý đất đai nông nghiệp, Liên minh Châu Âu cũng đã tích hợp sức khỏe đất vào chiến lược canh tác giảm phát thải với chính sách vĩ mô, hướng tới mục tiêu canh tác thông minh và phục hồi hệ sinh thái đất.
Đối với Việt Nam, việc chăm sóc, bảo vệ, nâng cao sức khoẻ và năng suất lâu dài của đất đai góp phần bảo đảm mục tiêu an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp bền vững. Vì đất mà không khỏe thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất cây trồng. Do đó, chúng ta phải coi việc bảo vệ sức khỏe của đất như bảo vệ sức khỏe của chính chúng ta. Nghĩa là, đất phải được chăm sóc, phải được “khám sức khỏe” thường xuyên để tìm ra phương án bảo vệ một cách tối ưu nhất.
PV: Trước thực trạng đất sản xuất nông nghiệp ngày một bị suy thoái, ngày 11/10/2024, Bộ Nông nghiệp và PTNT (cũ) đã phê duyệt đề án nâng cao sức khỏe đất và quản lý dinh dưỡng cây trồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, ông có thể đánh giá tính hiệu quả của đề án này?
PGS.TS Trần Minh Tiến:
Tài nguyên đất của Việt Nam đang đối mặt với tình trạng thoái hóa khá nghiêm trọng. Theo kết quả điều tra, đánh giá đất trên phạm vi toàn quốc về thoái hóa đất của Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2020 cho thấy, cả nước có 5.077.000 ha đất sản xuất nông nghiệp (chiếm 44% tổng diện tích đất điều tra) bị thoái hóa với các mức độ khác nhau, trong đó chủ yếu là thoái hóa nhẹ (65,2%) và thoái hóa trung bình (32,6%). Đất bị thoái hóa bao gồm các đặc điểm như: Đất bị suy giảm độ phì; đất bị xói mòn; đất bị khô hạn, hoang mạc hóa, sa mạc hóa; đất bị kết von, đá ong hóa; đất bị mặn hóa và đất bị phèn hóa.
PGS.TS Trần Minh Tiến giới thiệu việc phân loại đất tại Phòng trưng bày Bảo tàng Đất - Viện Thổ nhưỡng Nông hóa
Đất sản xuất nông nghiệp của Việt Nam bị suy giảm độ phì như hiện nay, ngoài yếu tố khách quan do đặc điểm quá trình hình thành đất, biến đổi khí hậu, còn do tác động rất lớn của các yếu tố chủ quan như về tập quán canh tác, trồng nhiều vụ trong năm, bón quá nhiều phân vô cơ, ít sử dụng phân hữu cơ làm đất bị bạc màu, mất cân bằng dinh dưỡng, thiếu hụt nguyên tố trung, vi lượng và chất hữu cơ. Việc lạm dụng các loại phân bón và hóa chất bảo vệ thực vật trong suốt thời gian dài dẫn đến hiện tượng đất bị chua hóa, suy giảm hàm lượng hữu cơ, tích tụ các độc tố, phá vỡ cấu trúc đất, khiến đất bị trơ cứng và làm giảm khả năng canh tác. Theo kết quả điều tra của Viện Thổ nhưỡng Nông hóa (năm 2021), đất vùng Tây Nguyên, nơi trồng các loại cây công nghiệp có giá trị như cà phê và hồ tiêu, chất lượng đất đang có những thay đổi rất rõ theo hướng bất lợi, hàm lượng các-bon hữu cơ trong đất trung bình từ 1,2 - 2,5%, thấp hơn rất nhiều so với đất rừng tự nhiên (5,14%), độ pH của đất trồng cà phê và hồ tiêu dao động từ 3,1 - 4,6, trong khi đó ở đất rừng tự nhiên là 5,6.
Như đã biết, Việt Nam là quốc gia đất chật, người đông (bình quân diện tích đất trồng trọt trên đầu người chỉ khoảng hơn 0,1 ha), vì vậy để đảm bảo nguồn lương thực, thực phẩm cho hơn 100 triệu dân và giữ được vị thế là quốc gia xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới thì việc bảo vệ sức khỏe đất - một nguồn tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp, là vô cùng quan trọng. Chính vì vậy, thời gian gần đây Đảng, Nhà nước và Chính phủ cũng hết sức quan tâm đối với vấn đề này. Hiện nay đã có nhiều chính sách và quy định liên quan đến đất và bảo vệ sức khoẻ của đất được đưa ra. Ngay cả trong các Nghị quyết của Đảng cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cần bảo vệ và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai.
Tuy nhiên, điều mà chúng ta còn thiếu chính là tiềm lực và thực hiện những chỉ đạo, chính sách đó một cách hiệu quả nhất. Đề án “Nâng cao sức khỏe đất và quản lý dinh dưỡng cây trồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050” ra đời là cơ sở hỗ trợ rất nhiều trong việc nghiên cứu và phát triển những chương trình, khung thực hiện chung để giúp các địa phương, doanh nghiệp, nhà tài trợ và đối tác có căn cứ vững chắc để thực hiện các hoạt động, công tác bảo vệ sức khoẻ cho đất, cũng như quản lý dinh dưỡng cây trồng.
PV: Quản lý và nâng cao sức khỏe của đất không thể tách rời với khoa học công nghệ, chuyển đổi số… theo ông, thời gian tới chúng ta phải có những hành động cụ thể gì để quản lý đất một cách hiệu quả nhất?
PGS.TS Trần Minh Tiến:
Thứ nhất: Cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về sức khỏe đất trồng trọt và dinh dưỡng cây trồng chúng ta cần thống nhất hệ thống phân loại đất với bộ chỉ tiêu đánh giá chất lượng đất trong toàn quốc; rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về sức khỏe đất trồng trọt và chất lượng phân bón; kiện toàn và nâng cao năng lực hệ thống phòng thí nghiệm, cả thiết bị và phương pháp phân tích về đánh giá đất và chất lượng phân bón phục vụ công tác quản lý về sức khỏe đất trồng trọt và chất lượng phân bón.
Cán bộ của Viện Thổ nhưỡng Nông hóa đang phân tích mẫu đất
Thứ hai: Xây dựng được bộ cơ sở dữ liệu về chất lượng các loại đất chính (bao gồm các chỉ tiêu về lý, hóa và sinh học đất) và sử dụng phân bón cho các cây trồng chủ lực. Đặc biệt, các dữ liệu phải được mô hình hóa, chuẩn hóa và số hóa để người sản xuất, doanh nghiệp thuận tiện trong việc tiếp cận thông tin về sức khỏe của đất để điều chỉnh sản xuất, đối tượng cây trồng một cách hợp lý, hiệu quả nhất.
Thứ ba: Xây dựng được bộ chỉ tiêu và thang phân cấp chỉ tiêu đánh giá sức khỏe đất trồng trọt về vật lý, hóa học và sinh học theo các loại đất chính và cây trồng chủ lực hài hòa với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.
Thứ tư: Xây dựng, hoàn thiện được quy trình canh tác hợp lý gắn với sử dụng phân bón hiệu quả, giảm thất thoát chất dinh dưỡng trên các loại đất chính trồng các cây trồng chủ lực, góp phần ổn định và nâng cao sức khỏe đất trồng trọt, bảo vệ và phát triển đa dạng hệ sinh vật có ích, giảm phát thải khí nhà kính.
Thứ năm: Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật và sự quan tâm của cộng đồng về quản lý sức khỏe đất trồng trọt và dinh dưỡng cây trồng từ trung ương đến địa phương.
PV: Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi này!
Lê Hải