
Nghiên cứu tích hợp các chương trình mục tiêu quốc gia, giảm nghèo bền vững
15/09/2025TN&MTTrong nhiều năm qua, các chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) về xây dựng nông thôn mới (NTM), giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã đem lại nhiều kết quả quan trọng. Hàng triệu hộ dân được hỗ trợ nhà ở, y tế, giáo dục; hàng ngàn xã đạt chuẩn NTM; tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh so với hai thập kỷ trước.
Tuy nhiên, thực tiễn triển khai cũng bộc lộ những bất cập: nguồn lực phân tán, trùng lặp đầu tư, chồng chéo tiêu chí, khó khăn trong phân bổ và giải ngân ngân sách. Nhiều địa phương có tiền mà không giải ngân được do thiếu địa chỉ cụ thể hoặc tiêu chí chung chung. Đây chính là bối cảnh đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu tích hợp, hợp nhất các chương trình, nhằm bảo đảm đồng bộ, phát huy hiệu quả và hướng tới mục tiêu phát triển bao trùm.
Đề xuất hợp nhất: Từ phân tán sang tích hợp
Chiều 12/9, tại Trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã chủ trì cuộc họp về báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư CTMTQG xây dựng NTM và giảm nghèo bền vững; đồng thời thảo luận dự thảo Nghị định quy định chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2026–2030.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng phát biểu tại cuộc họp
Báo cáo tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng cho biết chuẩn nghèo mới sẽ gồm hai nhóm tiêu chí: (1) Thu nhập: 2,2 triệu đồng/người/tháng ở nông thôn; 2,8 triệu đồng/người/tháng ở đô thị. (2) Thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản: hướng tới tiệm cận mức sống tối thiểu vào năm 2028.
Nếu áp dụng chuẩn mới, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều sẽ tăng mạnh từ 1,93% hiện nay lên 11,7%, tương đương khoảng 3,3 triệu hộ. Điều này đồng nghĩa với gánh nặng ngân sách an sinh xã hội dự kiến lên đến 30.000 tỉ đồng chỉ riêng năm 2026, gấp đôi so với năm 2025.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất hợp nhất CTMTQG xây dựng NTM và giảm nghèo bền vững trong giai đoạn 2026–2035, triển khai trên phạm vi cả nước. Đối tượng thụ hưởng gồm hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, cộng đồng, hợp tác xã, tổ chức liên quan.
Chương trình sẽ chia làm hai giai đoạn: (1) 2026–2030: tập trung giảm nghèo, nâng chuẩn sống, hỗ trợ các xã nghèo đặc biệt khó khăn. (2) 2031–2035: mở rộng sang xây dựng NTM hiện đại, gắn công nghiệp hóa, đô thị hóa.
Mục tiêu đến năm 2030: Thu nhập bình quân người dân nông thôn tăng 2,5–3 lần so với năm 2020; Tỷ lệ hộ nghèo giảm 1–1,5%/năm; xã nghèo giảm ít nhất 3%/năm; 100% xã nghèo thoát nghèo, 65% xã đạt chuẩn NTM, 10% đạt chuẩn NTM hiện đại.
Mục tiêu đến 2035: Thu nhập người dân nông thôn tăng gấp 1,6–2 lần so với năm 2030; Ít nhất 85% xã đạt chuẩn NTM, 10–12 tỉnh/thành hoàn thành NTM, trong đó 4–5 địa phương đạt chuẩn NTM hiện đại.
Tổng nguồn lực dự kiến huy động là 12,35 triệu tỉ đồng. Riêng giai đoạn 2026–2030, ngân sách Trung ương ưu tiên 52.500 tỉ đồng cho 350 xã nghèo; 106.000 tỉ đồng cho 1.148 xã phấn đấu đạt chuẩn NTM; 18.520 tỉ đồng cho 463 xã chuyển tiếp giai đoạn 2031–2035.
Nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (trước đây) Nguyễn Xuân Cường nói về việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia và giảm nghèo bền vững.
Quan điểm từ các chuyên gia và lãnh đạo
Nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (trước đây) Nguyễn Xuân Cường cho rằng, việc sáp nhập cấp xã trong giai đoạn tới sẽ làm thay đổi quy mô quản lý, đòi hỏi cách tiếp cận mới. Ông nhấn mạnh: “Cần nghiên cứu tích hợp các CTMTQG để bảo đảm đồng bộ, tránh phân tán nguồn lực. Việc gộp các chương trình xây dựng NTM, giảm nghèo bền vững, phát triển vùng đồng bào dân tộc và miền núi sẽ giúp thống nhất mục tiêu, giải pháp và khắc phục khó khăn trong phân bổ, giải ngân ngân sách”.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Ngọc cũng đồng tình, đồng thời nhấn mạnh chương trình mới phải khắc phục hạn chế cũ: “Nếu chỉ nói khái quát, không xác định sản phẩm rõ ràng, sẽ dẫn đến tình trạng có tiền mà không làm được, hoặc vốn bị chậm giải ngân. Do đó, cần lựa chọn 3–4 nhóm nhiệm vụ đột phá, gắn trực tiếp với đời sống người dân”.
Việc tích hợp không đơn thuần là gộp quỹ tiền, mà còn là thống nhất cơ chế, tiêu chí, quy trình thực hiện. Về quản trị, tránh tình trạng “nhiều ông chủ” cùng quản lý một mục tiêu, gây chồng chéo; Về ngân sách, tập trung nguồn lực, hạn chế tình trạng vốn rải mành mún; Về hiệu quả: khi các chỉ tiêu gắn bó mật thiết (ví dụ: thoát nghèo bền vững gắn với hạ tầng nông thôn, y tế, giáo dục), việc phối hợp đồng bộ sẽ đem lại tác động kép; Về xã hội, củng cố niềm tin của người dân khi chính sách đến đúng địa chỉ, minh bạch và dễ giám sát.
Tuy nhiên, tích hợp cũng đi kèm không ít thách thức, đó là khác biệt vùng miền, từ miền núi phía Bắc đến đồng bằng sông Cửu Long, điều kiện tự nhiên, văn hóa, nhu cầu phát triển rất khác nhau. Nếu áp một “chuẩn chung” có thể gây khó khăn trong triển khai. Bên cạnh đó, nguy cơ hành chính hóa, khi tích hợp, bộ máy quản lý dễ phình to nếu không cải cách thủ tục. Không chỉ có vậy còn có nguồn lực khổng lồ, 12,35 triệu tỉ đồng là con số chưa từng có, đòi hỏi sự vào cuộc của cả ngân sách, doanh nghiệp, cộng đồng quốc tế. Cuối cùng là đo lường hiệu quả, cần hệ thống giám sát – đánh giá rõ ràng, không chỉ dừng ở số lượng xã đạt chuẩn, mà phải gắn với chất lượng sống thực tế của người dân.
Để chương trình tích hợp thành công, các chuyên gia kiến nghị, đó là: Đổi mới cách xác định chuẩn nghèo, không chỉ dựa vào thu nhập mà còn tính tới chất lượng dịch vụ xã hội, khả năng chống chịu rủi ro (dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu).
Xác định rõ “sản phẩm đầu ra”, ví dụ, mỗi xã phải có tối thiểu 1 mô hình sinh kế bền vững, 1 công trình hạ tầng thiết yếu, 1 chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Tăng cường phân cấp, trao quyền nhiều hơn cho địa phương, nhưng gắn với trách nhiệm giải trình và giám sát độc lập.
Khuyến khích xã hội hóa, huy động doanh nghiệp, hợp tác xã, cộng đồng cùng tham gia; đặc biệt là liên kết chuỗi giá trị nông sản.
Ứng dụng công nghệ số, xây dựng hệ thống dữ liệu hộ nghèo, quản lý tiến độ bằng nền tảng trực tuyến, tránh thất thoát – trùng lặp.
Việc nghiên cứu tích hợp các CTMTQG xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững không chỉ là yêu cầu quản lý ngân sách, mà còn là bước ngoặt quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước. Đây là cách tiếp cận nhằm bảo đảm “không ai bị bỏ lại phía sau”, đồng thời đưa nông thôn Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu hiện đại, xanh và bao trùm.
Thiết nghĩ, tích hợp nếu được triển khai khoa học, minh bạch, với sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị và người dân sẽ là chìa khóa để đạt được mục tiêu kép, vừa giảm nghèo bền vững, vừa xây dựng nông thôn mới hiện đại trong một thập kỷ tới.
Hồng Minh