
Việt Nam khẳng định trách nhiệm toàn cầu trong bảo vệ tầng ô-dôn
16/09/2025TN&MTTrong bối cảnh thế giới kỷ niệm 40 năm Công ước Vienna, Việt Nam không chỉ khẳng định vai trò là thành viên có trách nhiệm trong bảo vệ tầng ô-dôn mà còn chủ động lồng ghép mục tiêu này với chiến lược khí hậu quốc gia. Những nỗ lực quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn đã góp phần trực tiếp giảm hàng trăm triệu tấn khí nhà kính, đưa Việt Nam tiến gần hơn tới cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Lê Công Thành phát biểu và chia sẻ về quá trình Việt Nam tham gia Công ước Vienna và Nghị định thư Montreal.
Ngày 15/9 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã tổ chức Hội thảo quốc gia với chủ đề “Hoạt động bảo vệ tầng ô-dôn hướng tới chuyển đổi xanh: Thúc đẩy hợp tác liên chính phủ, hợp tác công - tư”. Hội thảo do Thứ trưởng Lê Công Thành chủ trì cùng với sự tham gia của đại diện Quỹ Đa phương, các cơ quan quản lý thuộc bộ, ngành, địa phương; các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, UNEP, ETP, GGGI, UNDP, ADB, GIZ…; các viện nghiên cứu, trường đại học, chuyên gia và doanh nghiệp trong các lĩnh vực liên quan.
40 năm hợp tác toàn cầu và vai trò của Việt Nam
Từ cuối thập niên 1970, thế giới đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về hiện tượng suy giảm tầng ô-dôn, đặc biệt là sự hình thành “lỗ thủng ô-dôn” trên Nam Cực. Trước nguy cơ nghiêm trọng đe dọa sức khỏe con người và hệ sinh thái, năm 1985, các quốc gia thống nhất thông qua Công ước Vienna về bảo vệ tầng ô-dôn, mở ra kỷ nguyên hợp tác toàn cầu mới trong lĩnh vực môi trường. Trên cơ sở đó, năm 1987, Nghị định thư Montreal ra đời, trở thành một trong những hiệp ước quốc tế thành công nhất về bảo vệ môi trường, được tất cả 198 quốc gia và vùng lãnh thổ phê chuẩn.
Thành công của Nghị định thư Montreal thể hiện rõ qua con số ấn tượng: sau 40 năm, nhân loại đã loại trừ được 99% các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, đóng góp trực tiếp cho việc phục hồi “tấm lá chắn” bảo vệ Trái đất. Hội đồng đánh giá khoa học xác định, tầng ô-dôn dự kiến khôi phục hoàn toàn về mức năm 1980 vào khoảng năm 2040. Song song đó, các biện pháp loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn cũng giúp giảm phát thải khoảng 135 tỷ tấn CO₂ tương đương từ năm 1990 đến nay, chiếm 25% tổng nỗ lực toàn cầu nhằm hạn chế mức tăng nhiệt độ Trái đất. Đây chính là ví dụ điển hình về sự kết hợp hài hòa giữa khoa học, chính sách và hợp tác quốc tế để giải quyết một thách thức môi trường mang tính toàn cầu.
Trong bức tranh hợp tác chung ấy, Việt Nam đã có những đóng góp tích cực và liên tục trong suốt hơn ba thập kỷ qua. Tham gia Công ước Vienna và Nghị định thư Montreal từ năm 1994, Việt Nam luôn nghiêm túc thực hiện các cam kết quốc tế, đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ từ Quỹ Đa phương và các tổ chức quốc tế để loại trừ dần các chất HCFC, HFC. Các chương trình hợp tác này không chỉ giúp Việt Nam đạt mục tiêu môi trường, mà còn hỗ trợ doanh nghiệp trong nước chuyển đổi sang công nghệ tiên tiến, tiết kiệm năng lượng và thân thiện khí hậu.
Đặc biệt, việc Việt Nam tham gia Cam kết làm mát toàn cầu năm 2023 đã khẳng định quyết tâm đồng hành cùng cộng đồng quốc tế trong việc thúc đẩy các giải pháp làm mát bền vững. Từ chỗ là nước đang phát triển với nhiều khó khăn, Việt Nam đã dần chuyển mình trở thành quốc gia chủ động trong đề xuất giải pháp, lồng ghép bảo vệ tầng ô-dôn vào chiến lược ứng phó biến đổi khí hậu và phát thải ròng bằng 0.
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Lê Công Thành nhấn mạnh: “Đây là minh chứng sống động cho thấy thành công của việc gắn kết khoa học, chính sách và hợp tác quốc tế để tạo nên những thành tựu lớn lao trong bảo vệ sức khỏe con người, hệ sinh thái và phát triển bền vững”.
Hoàn thiện chính sách pháp luật, gắn kết mục tiêu khí hậu
Một điểm nổi bật của Việt Nam là sự chủ động nội luật hóa các quy định quốc tế. Luật Bảo vệ môi trường 2020 cùng các nghị định hướng dẫn như 06/2022/NĐ-CP và 119/2025/NĐ-CP đã đặt nền tảng pháp lý quan trọng cho quản lý đồng bộ, hiệu quả các chất được kiểm soát.
Theo thống kê, tính đến tháng 8/2025, Việt Nam đã loại trừ khoảng 240 triệu tấn CO₂ tương đương nhờ loại trừ, quản lý các chất làm suy giảm tầng ô-dôn. Thứ trưởng Lê Công Thành cho biết: “Trong giai đoạn tới, thực hiện Kế hoạch quốc gia, đến năm 2045 Việt Nam sẽ giảm trực tiếp khoảng 11,2 triệu tấn CO₂ tương đương. Nếu áp dụng đồng bộ các biện pháp bổ sung, lượng phát thải khí nhà kính sẽ giảm hơn nhiều, góp phần đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050”.
Ông Lê Ngọc Tuấn, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu phát biểu
Ông Lê Ngọc Tuấn, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, cũng cho biết: “Luật Bảo vệ môi trường hiện hành đã quy định cụ thể về bảo vệ tầng ô-dôn tại Việt Nam. Luật bao gồm quản lý hoạt động sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, tiêu thụ và loại trừ các chất được kiểm soát; đồng thời đưa ra các quy định về thu gom, tái chế, tái sử dụng hoặc tiêu hủy các chất trong thiết bị khi không còn sử dụng. Luật cũng khuyến khích phát triển và ứng dụng công nghệ, thiết bị sử dụng các chất không làm suy giảm tầng ô-dôn, thân thiện khí hậu”.
Ông Lê Ngọc Tuấn nhấn mạnh thêm, trong giai đoạn 2024-2045, việc thực hiện Kế hoạch quốc gia về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn và các chất gây hiệu ứng nhà kính sẽ giúp Việt Nam giảm trực tiếp hơn 11 triệu tấn CO₂ tương đương từ hoạt động tiêu thụ HFC. Nếu kết hợp quản lý vòng đời thiết bị và đẩy mạnh các giải pháp làm mát bền vững, lượng phát thải sẽ giảm nhiều hơn, góp phần thiết thực vào mục tiêu phát thải ròng bằng 0.
Hợp tác công – tư mở rộng cơ hội chuyển đổi xanh
Tại hội thảo, bà Tina Chondraki Birmpili, Trưởng Ban điều hành Quỹ Đa phương thi hành Nghị định thư Montreal, nhận định: “Ở lĩnh vực làm lạnh, yêu cầu quản lý các môi chất lạnh ngày càng cao nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ tầng ô-dôn và giảm phát thải khí nhà kính. Với Việt Nam, Quỹ Đa phương đã có quan hệ hợp tác bền chặt trong nhiều năm qua với 90 dự án được phê duyệt, tổng giá trị khoảng 30 triệu USD”.
Bà Tina Chondraki Birmpili, Trưởng Ban điều hành Quỹ Đa phương thi hành Nghị định thư Montreal phát biểu tại Hội thảo
Bà Birmpili cho biết thêm, Quỹ đã đưa ra khoản hỗ trợ mới cho Kế hoạch hành động thực hiện Sửa đổi, bổ sung Kigali. Việt Nam là một trong những quốc gia sớm đề xuất kế hoạch này với trọng tâm là giải pháp sử dụng năng lượng hiệu quả, tiết kiệm. Hai bên sẽ tiếp tục phối hợp để sớm phê duyệt các đề xuất trong thời gian tới.
Cùng với sự hỗ trợ quốc tế, nhiều doanh nghiệp như Daikin, MZ Vina cũng giới thiệu công nghệ làm mát bền vững, giải pháp quản lý vòng đời môi chất lạnh. Đây không chỉ là cách tiếp cận nghĩa vụ quốc tế mà còn mở ra cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia thị trường tín chỉ carbon và huy động nguồn lực tài chính toàn cầu.
Thứ trưởng Lê Công Thành khẳng định: “Những kết quả cho thấy Việt Nam đã và đang triển khai đúng lộ trình Công ước Vienna và Nghị định thư Montreal, đồng thời tích cực hợp tác, đồng hành với các quốc gia trên thế giới”
Hồng Minh