Áp dụng công nghệ mới trong nghiên cứu địa chất và khoáng sản

Thứ bảy, 27/4/2024, 08:58 (GMT+7)
logo Năm 2024, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản sẽ tiếp tục tham gia các dự án, đề án lớn của Bộ và Chính phủ về điều tra, đánh giá khả năng lưu trữ an toàn chất thải phóng xạ, CO2, tiềm năng địa nhiệt, bảo tồn di sản địa chất, công viên địa chất toàn cầu, phân vùng cảnh báo trượt lở, sụt lún, sạt lở, xâm nhập mặn,... Đồng thời, Viện cũng phát huy thế mạnh trong hợp tác với các địa phương, các đối tác truyền thống, đối tác quốc tế, từ đó chủ động nghiên cứu khoa học trong thời gian tới.

Áp dụng công nghệ mới trong nghiên cứu địa chất và khoáng sản

Kết quả nổi bật trong thực hiện các nhiệm vụ sự nghiệp

Trong năm 2023, Viện đã tham gia thực hiện 02 nhiệm vụ thuộc đề án Chính phủ về “Điều tra, đánh giá địa nhiệt và các nguồn nước khoáng nóng vùng Tây Bắc” và “Phân vùng rủi ro thiên tai và lập bản đồ cảnh báo lũ quét, sạt lở đất và sụt lún đất do mưa tại khu vực trung du và miền núi” cũng như thực hiện 02 nhiệm vụ sự nghiệp kinh tế về Điều tra, đánh giá đặc điểm karst ngầm nhằm phục vụ quản lý, quy hoạch phát triển dân cư vùng Đông Bắc Việt Nam” và “Lập bản đồ sinh khoáng và dự báo khoáng sản ẩn sâu khu vực Đông Bắc Bắc Bộ tỷ lệ 1:250.000” và được phê duyệt thực 01 nhiệm vụ sự nghiệp môi trường sẽ thực hiện năm 2024 về “Điều tra, đánh giá khả năng lưu trữ an toàn chất thải phóng xạ, CO2 và các chất thải độc hại trong các cấu trúc địa chất sâu phù hợp trên lãnh thổ Việt Nam (gồm các khu vực: Đông Bắc Bộ, Tây Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ) và dự toán Giai đoạn 1 - Khu vực Đông Bắc Bộ”. 

Các kết quả điều tra, nghiên cứu, đánh giá của Viện ở 05 nhiệm vụ nên trên đều phục vụ phát triển kinh tế - xã hội - môi trường, QP-AN, phòng chống giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu như: Quy hoạch thăm dò, khai thác địa nhiệt trên cơ sở làm rõ hiện trạng tiềm năng tài nguyên địa chất về địa nhiệt; phân vùng rủi ro thiên tai và cảnh báo thiên tai về lũ quét, sạt lở đất nhằm phòng tránh, giảm thiểu tai biến; quy hoạch phát triển dân cư trên các khu vực karst vùng Đông Bắc Việt Nam; dự báo và phân vùng triển vọng khoáng sản ẩn sâu khu vực Đông Bắc Bắc Bộ; đề xuất, kiến nghị quy hoạch, xây dựng các kho lưu giữ, quản lý an toàn chất thải phóng xạ, CO2 và các chất thải độc hại.

Về kết quả chi tiết điều tra đánh giá địa nhiệt, Viện đã xây dựng tổng hợp danh bạ 19 nguồn nước khoáng nóng Tây Bắc Việt Nam, xây dựng các bản đồ nước khoáng nóng vùng Tây Bắc tỷ lệ 1:250.000 và ở hai khu vực chi tiết tỷ lệ 1:10.000. Về kết quả chi tiết về phân vùng rủi ro thiên tai sạt lở đất, Viện đã chuẩn hóa các lớp bản đồ hiện trạng (22 tỉnh), lớp bản đồ phân vùng nguy cơ sạt lở đất (15 tỉnh) tỷ lệ 1:50.000, chuẩn hóa các lớp bản đồ hiện trạng sạt lở đất của 6 xã trọng điểm tỷ lệ 1:10.000, phân tích, đánh giá và xác định ngưỡng mưa gây sạt lở đất. 

Về kết quả chi tiết về khoáng sản ẩn sâu, Viện đã làm rõ các đặc điểm về cấu trúc trường quặng, thành phần hóa học và điều kiện thành tạo quặng, đặc điểm phân bố và quy mô khoáng sản Pb-Zn ở 02 khu vực chi tiết thuộc tỉnh Hà Giang. Kết quả tổng hợp tài liệu xây dựng thuyết minh về đánh giá khả năng lưu trữ an toàn chất thải phóng xạ, CO2 và các chất thải độc hại trong các cấu trúc địa chất sâu, Viện đã đề ra xây dựng bộ tiêu chí lựa chọn địa điểm, dự thảo quy định kỹ thuật, lựa chọn khoanh định và đánh giá các khu vực có khả năng lưu trữ, chôn cất ở tỷ lệ 1:250.000 và điều tra 05 khu vực chi tiết ở tỷ lệ 1:50.000 v.v.

Thời gian tới, để góp phần phục vụ tốt nhất cho công cuộc phát triển của đất nước, Viện cần phải triển thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ về nghiên cứu cơ bản về địa chất và khoáng sản, nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng về địa chất và khoáng sản, đào tạo tiến sỹ, hợp tác quốc tế theo các định hướng chủ yếu của chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030; chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; nghiên cứu cung cấp cơ sở khoa học về địa chất và khoáng sản cho quy hoạch điều tra địa chất về khoáng sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; và nghiên cứu xây dựng các văn bản pháp luật dưới Luật Địa chất và Khoáng sản,...

Đồng thời, để đáp ứng được các nhiệm vụ nghiên cứu và chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa học về địa chất cơ bản, địa chất cơ bản định hướng ứng dụng làm cơ sở khoa học cho các ngành, địa phương trong việc quy hoạch, quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên địa chất, tài nguyên khoáng sản để phát triển KT-XH, QP-AN thì Viện phải định hướng theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế. Đây là thời điểm mang tính bước ngoặt, cần có nhận thức mang tính cách mạng, đồng bộ để phát triển lên mức cao hơn. 

Để thực hiện được điều này, ngoài việc tiếp tục thực hiện nghiên cứu địa chất cơ bản, địa chất cơ bản định hướng ứng dụng, khoáng sản, còn cần phải tập trung nhiều hơn vào việc nghiên cứu tài nguyên địa chất, tài nguyên địa nhiệt, tài nguyên vị thế, các cấu trúc địa chất tàng trữ, cấu trúc địa chất sâu, di chỉ địa chất, di sản địa chất, tai biến địa chất, không gian địa chất, khoáng sản chiến lược, quan trọng, năng lượng tái tạo, năng lượng xanh,... Viện cũng sẽ triển khai xây dựng và tổng hợp các tài nguyên số về địa chất và khoáng sản và xác định đó là một nguồn tài nguyên thực sự, có tầm quan trọng đặc biệt trong việc hình thành hệ thống dữ liệu không gian - thời gian số về tài nguyên địa chất và môi trường địa chất và các điều kiện địa chất khác nhằm tạo lập nền tảng cho việc nghiên cứu, quản lý “không gian phát triển” của đất nước, phục vụ chuyển đổi số; phục vụ các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, kinh tế xanh,...

Tăng cường năng lực nghiên cứu, thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế của Viện 

Nhằm nâng cao vị thế của một Viện đầu ngành nghiên cứu về địa chất và khoáng sản, Viện đề ra một số định hướng mục tiêu cơ bản về tăng cường năng lực nghiên cứu, thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế như sau: Nghiên cứu xây dựng các chính sách và pháp luật, tiêu chuẩn và định mức kinh tế kỹ thuật liên quan đến địa chất và khoáng sản, sử dụng tài nguyên địa chất và khoáng sản; nghiên cứu xây dựng, tham gia các chương trình khoa học và công nghệ các cấp Quốc gia, cấp Bộ trong các lĩnh vực địa chất cơ bản, khoáng sản, tai biến địa chất, di sản địa chất, biến đổi khí hậu, năng lượng, đô thị; nghiên cứu xây dựng các nghiên cứu và phát triển các ứng dụng năng lượng tái tạo, khoáng hóa cacbon, kiểm đếm khí nhà kính, vật liệu thân thiện với môi trường, thu hồi khoáng sản chiến lược và quan trọng, năng lượng xanh, không gian ngầm; nghiên cứu và nâng cao năng lực nghiên cứu trong giám sát theo thời gian thực về môi trường địa chất, tai biến địa chất, di sản địa chất, tài nguyên địa chất, khoáng sản; nghiên cứu xây dựng các nghiên cứu liên ngành về địa nông nghiệp, địa khảo cổ, địa khí hậu, địa sinh thái, địa y học, địa tin học. Viện đã nghiên cứu áp dụng công nghệ mới trong nghiên cứu địa chất và khoáng sản như: Sử dụng các công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI), khoa học dữ liệu (Data Science), dữ liệu lớn (BigData), chuỗi khối (blockchain), vạn vật kết nối (IoT); tăng cường sự hợp tác và liên kết giữa các đơn vị trong ngành, đồng thời đẩy mạnh công tác hợp tác nghiên cứu khoa học với các đối tác trong và ngoài nước như: Hoa Kỳ, Anh, Bỉ, Ba Lan, Hàn Quốc, Đài Loan,... Đồng thời, Viện đẩy mạnh công tác đào tạo và công bố về các kết quả nghiên cứu khoa học gắn với tài nguyên địa chất và khoáng sản, địa chất cơ bản, địa chất ứng dụng; chuyển giao các kết quả nghiên cứu về địa chất và khoáng sản để phát triển ứng dụng các sản phẩm đó cho dịch vụ khoa học và công nghệ.

TS. TRỊNH HẢI SƠN
Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 5 năm 2024