Chiều 21/11/2025 tại Hà Nội, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi phối hợp Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Diễn đàn “Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước”.
Tham dự diễn đàn có đại diện của Bộ Công an, Bộ Công thương, một số đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường như Cục chuyển đổi số, Trường Đại học Thủy lợi... cùng các nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia, doanh nghiệp và chính quyền địa phương. Diễn đàn nhằm chia sẻ kinh nghiệm, định hướng lộ trình chuyển đổi số với ba mục tiêu là bảo đảm an toàn công trình trước thời tiết cực đoan, cắt giảm lũ hiệu quả cho hạ du và nâng cao khả năng cấp nước đa mục tiêu.
Báo cáo của Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cho biết, hiện cả nước có 7.315 đập, hồ chứa thủy lợi với tổng dung tích khoảng gần 15 tỷ m³, đảm bảo tưới cho 1,1 triệu ha đất nông nghiệp và cấp khoảng 1,5 tỷ m³ nước cho sinh hoạt, công nghiệp. Ông Phan Tiến An – Trưởng phòng An toàn đập và Hồ chứa nước, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cho biết, hiện nay mức độ ứng dụng công nghệ trong quản lý an toàn đập, hồ chức nước còn thấp, đặc biệt là ở nhóm hồ có dung tích vừa và nhỏ do địa phương quản lý. Nhiều yêu cầu bắt buộc chưa được thực hiện đầy đủ: chỉ 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp, 9% được kiểm định an toàn, 31% có quy trình vận hành và khoảng 11% cắm mốc phạm vi bảo vệ. Dữ liệu kỹ thuật của phần lớn hồ chứa chưa đầy đủ, phân tán; quy chế phối hợp vận hành liên hồ ở một số địa phương còn thiếu thống nhất.
Ở một số địa phương đã xây dựng phần mềm quản lý dữ liệu về phòng, chống thiên tai tích hợp hồ chứa, song vẫn chưa kết nối với cơ sở dữ liệu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Hiện cả nước có khoảng 100 hồ dung tích lớn có cửa van đã lắp thiết bị quan trắc mưa tự động, nhưng những hệ thống này chưa được chuẩn hóa, thiếu bảo trì, thường xuyên lỗi số liệu.
“Để chuyển sang quản lý thông minh chúng ta cần sớm hoàn thiện thể chế, tiêu chuẩn dữ liệu và quan trắc thời gian thực; nâng cấp cơ sở dữ liệu đập, hồ chứa theo hướng đồng bộ, tích hợp; lắp đặt đầy đủ thiết bị quan trắc và hệ thống cảnh báo lũ đa kênh đồng thời đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực số. Ngành thủy lợi sớm đẩy mạnh ứng dụng AI, IoT, Big Data và hệ thống hỗ trợ ra quyết định trên một nền tảng số thống nhất...” – ông An nhấn mạnh.
Tại diễn đàn, TS. Nguyễn Văn Mạnh, Viện Quy hoạch Thủy lợi cho biết, các mô hình dự báo hiện có đang phục vụ cảnh báo lũ và đề xuất phương án vận hành cho nhiều hồ lớn, song chất lượng dự báo vẫn phụ thuộc nhiều vào dữ liệu mưa và công nghệ còn lạc hậu, cần sớm được nâng cấp. Bên cạnh đó, tỷ lệ thực hiện các yêu cầu bắt buộc về an toàn đập vẫn còn thấp, khoảng 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp, 9% được kiểm định an toàn và chỉ 19% lắp thiết bị quan trắc. Nhiều hồ chưa có quy trình vận hành hoặc mốc bảo vệ, dẫn đến nguy cơ mất an toàn khi mưa lũ đến bất ngờ.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu gây mưa lũ cực đoan và quá trình đô thị hóa làm giảm không gian thoát lũ, yêu cầu vận hành hồ để bảo đảm an toàn hạ du ngày càng cấp thiết. Tuy nhiên, hiện nay, chưa có quy chế phối hợp thống nhất giữa các địa phương trong cùng lưu vực. Mỗi hồ vận hành theo quy trình riêng, trong khi chưa có cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm điều phối chung khi xảy ra tình huống khẩn cấp. Sự phối hợp giữa các nhóm đơn vị vận hành liên hồ chứa (hồ thủy điện và hồ thủy lợi) chưa thực sự đồng bộ. Việc chia sẻ dữ liệu giữa hồ thủy điện và hồ thủy lợi còn hạn chế; chưa có một nền tảng điều hành và giám sát tập trung dùng chung cho toàn lưu vực.
Là người có nhiều năm gắn bó với lĩnh vực thủy lợi, GS, TS. Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam cho biết, Việt Nam đã quan tâm xây dựng Hệ thống hỗ trợ vận hành (DSS) và thực tế cho thấy công cụ này hỗ trợ hiệu quả trong vận hành hồ chứa, liên hồ chứa và phòng chống thiên tai. Nhưng trước yêu cầu ngày càng lớn về an toàn đập, an toàn hạ du và tối ưu khai thác nước trong bối cảnh cực đoan khí hậu, chúng ta cần một hệ thống hỗ trợ vận hành thông minh hơn, hiện đại hơn, đủ khả năng đáp ứng những thách thức mới của quản lý tài nguyên nước.
Muốn quản lý vận hành liên hồ chứa một cách hiệu quả chúng ta buộc phải áp dụng công nghệ số. Theo ông Đặng Duy Hiển, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), để giúp tăng cường phối hợp liên hồ, liên ngành, cần nâng cao khả năng ra quyết định dựa trên dữ liệu và giảm thiểu chi phí, rủi ro vận hành. Theo đó, trong kỷ nguyên số, việc ứng dụng công nghệ thông tin không đồng nghĩa với chuyển đổi số. Vì vậy, đối với các công trình thủy lợi, hồ đập cần được gắn mã định danh riêng để quản lý chặt chẽ, minh bạch.
Việc chuyển đổi số phải bắt đầu từ số hóa dữ liệu hiện hữu, đảm bảo các thông tin phải đúng, minh bạch, đủ, sạch, sống và thống nhất, lấy trực tiếp từ nguồn, tránh dữ liệu sai lệch hoặc không chính xác. Khi có dữ liệu đầu vào chuẩn và đầy đủ, hệ thống quản lý sẽ giúp giám sát, vận hành và điều phối hồ đập theo thời gian thực, hỗ trợ dự báo lũ, cắt giảm lũ hiệu quả cho hạ du, tối ưu khai thác nước tưới, nước sinh hoạt và thủy điện....
Phát biểu kết luận diễn đàn, ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cho rằng, những đợt mưa lũ dồn dập vừa qua đã bộc lộ nhiều vấn đề cần được đánh giá lại trong cả công tác dự báo lẫn tổ chức vận hành liên hồ. Do vậy, để ứng phó với thời tiết diễn biến ngày càng cực đoan trong cách vận hành, phối hợp liên hồ chứa chúng ta cần sớm đầu tư xây dựng hệ thống cảnh báo tự động, nâng cao năng lực cán bộ phân tích dữ liệu. Thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong toàn bộ chuỗi quản lý hồ chứa. Khi dữ liệu được chuẩn hóa, hệ thống quan trắc đầy đủ và công nghệ hỗ trợ được áp dụng rộng rãi, việc vận hành hồ chứa sẽ an toàn hơn, kịp thời hơn, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt.