Những năm qua, Công ty Nhiệt điện Na Dương - TKV (Công ty) luôn xác định quá trình sản xuất kinh doanh phải gắn chặt với bảo vệ môi trường (BVMT), thúc đẩy tiêu xử lý và tiêu thụ tro, xỉ để phát triển bền vững.
Chú trọng bảo vệ môi trường
Trong những qua, Công ty đã tích cực thực hiện công tác BVMT, đảm bảo cảnh quan môi trường khuôn viên Nhà máy “Sáng - Xanh - Sạch - Đẹp” được các đơn vị và CBCNV hưởng ứng nhiệt tình như trồng, chăm cây xanh nhân dịp đầu xuân; tổ chức tổng vệ sinh các khu tập thể, khuôn viên Nhà máy; hưởng ứng các ngày lễ lớn; nạo vét rãnh thoát nước trong và ngoài hàng rào Nhà máy trước mùa mưa bão;...
Môi trường lao động của CBCNV-LĐ được quan tâm, công tác vệ sinh công nghiệp trước, trong và sau ca sản xuất được thực hiện nghiêm túc đảm bảo môi trường làm việc thoáng đãng, sạch sẽ; định kỳ tổ chức quan trắc môi trường, đo kiểm môi trường lao động, tăng cường các biện pháp cải thiện điều kiện môi trường làm việc cho người lao động tại các vị trí sản xuất chịu tác động bởi các điều kiện về nhiệt độ, độ ồn, nồng độ bụi cao.
Bên cạnh đó, các loại rác thải sinh hoạt, chất thải nguy hại được thu gom, phân loại và lưu giữ, vận chuyển đi xử lý triệt để, hiệu quả. Các hệ thống xử lý khí thải, nước thải, quan trắc môi trường tự động được vận hành duy trì ổn định.
Cũng trong năm qua, Công ty luôn tuân thủ Quy chuẩn 22:2009/BTNMT (Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về khí thải công nghiệp nhiệt điện) đối với khí khói thải (Bụi, Nox, SOx, CO…) và các các tiêu chuẩn xả thải đối với nước thải. Do vậy, trong năm qua đã không để cho sự cố môi trường xảy ra.
Về xử lý nước thải, toàn bộ nước thải của Nhà máy trước khi thải ra môi trường đều được thu gom lại đưa vào bể cân bằng. Tại bể này nước được các dàn sục khí hòa trộn đồng đều đồng nhất các chất, sau đó chuyển sang bể trung hòa để trung hòa pH ổn định. Nước tiếp tục được định lượng thêm các polymer và đưa vào bể lắng tạo bông, tách các tạp chất lơ lửng sau đó lại được đưa sang bể lắng kiểu phiến rồi đến bể giám sát trung tâm, cuối cùng nước được chuyển ra ngoài môi trường bằng 2 bơm có công suất 170m3/h.
Nước chuyển ra ngoài môi trường nếu không đạt tiêu chuẩn thì được quay ngược lại bể giám sát trung tâm để xử lý đến khi đạt tiêu chuẩn mới thải ra ngoài môi trường. Bùn từ bể lắng bông được xả xuống hố bùn rồi được bơm lên máy ép bùn tạo bánh bùn chuyển lên bãi thải.
Đối với giám sát khí thải online, Công ty đã lắp đặt hệ thống (CEMS) quan trắc tự động khí thải cho 02 lò hơi và kết nối truyền dữ liệu online về Trung tâm Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lạng Sơn (Hệ thống đã được đưa vào vận hành và kết nối truyền dữ liệu online từ tháng 3 năm 2019). Cùng với đó, Công ty thực hiện việc Công khai thông tin môi trường theo Điều 102 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022. Công ty cũng đã công khai kết quả quan trắc chất thải tự động, liên tục (bao gồm kết quả thực tế so với giá trị giới hạn của các chất ô nhiễm đã được cấp phép) trên bảng thông tin điện tử đặt tại cổng vào Công ty.
Còn về giám sát online nước thải, Công ty đã triển khai lắp đặt hệ thống quan trắc nước thải tự động và màn hình hiển thị thông số phát thải tại cổng chính nhà máy. Hệ thống đã được đưa vào vận hành và kết nối truyền dữ liệu online về Trung tâm Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lạng Sơn từ tháng 6 năm 2021. Định kỳ hằng năm Công ty hợp đồng với đơn vị có đủ năng lực thực hiện việc kiểm định hiệu chuẩn thiết bị và đánh giá chất lượng hệ thống theo đúng quy định của nhà nước.
Còn nhiều khó khăn trong tiêu thụ tro, xỉ
Nhà máy Nhiệt điện Na Dương – TKV có công suất thiết kế 2x55MW, lượng than tiêu thụ trung bình với khối lượng tiêu thụ khoảng 525.000 tấn/năm và đá vôi 150.000 tấn/năm.
Lượng tro xỉ phát sinh hàng năm khoảng 300.000 tấn/năm tro, xỉ khô (khoảng 1.000 tấn/ngày, trong đó khoảng 45% là xỉ đáy, còn lại là tro bay). Tro xỉ phát sinh trong quá trình vận hành của 02 lò hơi được thu giữ và chứa vào Silo chung. Tại các Silo, tro xỉ khô sẽ trộn với nước tạo ẩm (nhằm ngăn ngừa phát tán bụi), đổ vào xe chuyên dụng kín và vận chuyển, lưu giữ tại bãi xỉ của nhà máy.
Thực trạng bãi chứa tro, xỉ, thạch cao của nhà máy (Diện tích, thiết kế bãi chứa, hệ thống tiêu thoát nước, so sánh với cam kết trong báo cáo đánh giá tác động môi trường đã phê duyệt; thuyết minh quy chế vận hành, quản lý bãi thải). Tổng lượng tro, xỉ tồn lưu từ khi vận hành đến hết tháng 9 năm 2025 là 5.786.384 tấn.
Tro xỉ thải Nhà máy được phun trộn ẩm sau đó được vận chuyển bằng xe chuyên dụng đổ thải tại bãi thải xỉ Nà Đươi cách xa khu dân cư và Nhà máy khoảng 2,5 ÷ 3km, theo Hộ chiếu đổ thải của Công ty đã ban hành.
Tro, xỉ của Công ty Nhietj điện Na Dương - TKV đã được Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng (Bộ Xây dựng) cấp giấy chứng nhận hợp chuẩn tro xỉ nhiệt điện đốt than làm vật liệu san lấp và làm phụ gia khoáng xi măng. Hiện có một số đơn vị, doanh nghiệp đã sử dụng tro xỉ làm vật liệu xây dựng san lấp và phụ gia cho xi măng như: Công ty Cổ phần Xi măng Hồng Phong, Công ty Cổ phần Phú Quý 668... Nhờ đó, đã mang lại lợi ích kép, vừa góp phần đảm bảo môi trường, vừa đem lại giá trị kinh tế cho công ty.
Tại vị trí thải tro, xỉ từ nhà máy đến mặt bằng đổ thải tại bãi thải xỉ, tro xỉ sẽ được san ủi làm phẳng và tưới nước làm ẩm, bề mặt để đảm bảo môi trường trong quá trình đổ thải.
Tuy nhiên, do đặc thù của than Na Dương có hàm lượng lưu huỳnh cao, lượng vôi dư trong tro, xỉ lớn, thể thích không ổn định, do đó việc nghiên cứu, ứng dụng xử lý, tiêu thụ tro xỉ gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai, dẫn đến lượng tro, xỉ tích lũy nhiều năm chưa được tiêu thụ chiếm diện tích tương đối lớn.
Cùng với đó, Công ty nằm xa trung tâm và các khu công nghiệp, do đó việc vận chuyển thực hiện các dự án, đề tài xử lý, tiêu thụ tro xỉ gặp nhiều khó khăn. Do vậy, chưa đáp ứng được kỳ vọng để thúc đẩy các doanh nghiệp liên hệ tiêu thụ. Mặt khác, quá trình đốt lò, Nhà máy sử dụng một lượng đá vôi đáng kể để khử lưu huỳnh trong than. Do đó việc nghiên cứu, ứng dụng xử lý, tiêu thụ tro xỉ gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai, dẫn đến lượng tro, xỉ hiện tại vẫn đang chứa tại bãi thải.
Ngoài ra với phương án dùng tro, xỉ để làm phụ gia khoáng cho xi măng theo giấy chứng nhận Hợp chuẩn thì lượng tro, xỉ tiêu thụ được rất ít, do trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn có ít nhà máy tiêu thụ, vươn xa ra tỉnh khác thì khoảng cách cung đường vận chuyển cao do đó chưa kỳ vọng được việc tiêu thụ theo mong muốn theo quy định của nhà nước.
Công ty Nhiệt điện Na Dương - TKV được thành lập theo Quyết định số 172/2003/QĐ-BCN ngày 24 tháng 10 năm 2003 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp, trực thuộc Tổng Công ty than Việt Nam. Hiện nay, Công ty nhiệt điện Na Dương - TKV thuộc Tổng Công ty Điện lực - TKV.