news

Kỳ 2: Dấu ấn liên kết nông nghiệp sinh thái - Từ cánh đồng lúa phát thải thấp đến đặc sản vùng cao

Thứ năm, 20/11/2025, 22:10 (GMT+7)
logo Trong Kỳ 1, chúng ta đã đi sâu phân tích những thành tựu vĩ mô và các nút thắt thể chế cần tháo gỡ sau 06 năm thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP. Với gần 3.000 dự án liên kết được phê duyệt, chính sách này không chỉ dừng lại ở các con số khô khan mà đã thấm sâu vào thực tiễn, tạo ra những mô hình kinh tế nông nghiệp hiệu quả, bền vững và có khả năng cạnh tranh quốc tế. Kỳ báo 2 sẽ tập trung vào những điển hình thành công, nơi Hợp tác xã (HTX) và Doanh nghiệp (DN) trở thành kiến trúc sư cho các chuỗi giá trị, nâng cao thu nhập cho hàng trăm nghìn nông hộ, đồng thời hiện thực hóa chiến lược phát triển nông nghiệp xanh và hiện đại.
chuyen-doi-muc-dich-su-dung-sat-trong-lua-161220a_1763562438.webp
“Cánh đồng mẫu lớn” hay “Cánh đồng lớn” là cánh đồng lúa được nông dân trồng một loại giống lúa được doanh nghiệp cung cấp giống, hướng dẫn kỹ thuật canh tác; đồng thời, doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm… Đây được xem là mối liên kết bốn nhà (nhà nông - nhà doanh nghiệp - nhà nước - nhà khoa học) trong sản xuất - tiêu thụ lúa gạo.

Cánh đồng chuỗi giá trị: Công thức thành công cho ngành hàng tỷ đô

Các dự án liên kết trong lĩnh vực trồng trọt chiếm ưu thế tuyệt đối (67%), tập trung vào các ngành hàng chủ lực. Đây là khu vực mà sự hợp tác đã mang lại hiệu quả rõ rệt nhất về mặt quy mô, chất lượng và khả năng thích ứng với thị trường xuất khẩu.

Lúa gạo, vốn là ngành hàng truyền thống, đã được nâng tầm nhờ các mô hình liên kết theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, hướng tới Đề án "Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp" đang được Bộ Nông nghiệp và Môi trường chỉ đạo triển khai quyết liệt tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).

Liên kết trong ngành lúa gạo không chỉ dừng lại ở việc bao tiêu sản phẩm mà là một chu trình sản xuất khép kín, áp dụng các tiêu chuẩn canh tác bền vững. Trong mô hình này, doanh nghiệp lớn như Công ty Cổ phần nông nghiệp công nghệ cao Trung An hay Tập đoàn Lộc Trời đóng vai trò cung cấp giống, vật tư đầu vào, quy trình kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm, trong khi HTX và hộ nông dân là lực lượng sản xuất chính.

Cơ chế liên kết hiệu quả: (1) Chuyển giao quy trình: Giúp nông dân giảm lượng giống gieo sạ, giảm sử dụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, chuyển sang các kỹ thuật canh tác tiên tiến như "1 phải 5 giảm" hoặc "SRI". (2) Lợi ích kép: Các nghiên cứu cho thấy, nông dân tham gia mô hình lúa gạo liên kết không chỉ ổn định đầu ra mà còn tăng lợi nhuận đáng kể. Theo số liệu tổng hợp, mô hình đã giúp giảm chi phí sản xuất, đồng thời tăng lợi nhuận cho nông dân từ 4,6 - 15,8 triệu đồng/ha so với canh tác truyền thống. (3) Giá trị môi trường: Quan trọng hơn, việc chuyển sang canh tác ít phát thải đã giúp lúa gạo Việt Nam mở ra cánh cửa tiếp cận các thị trường khó tính, sẵn sàng trả giá cao cho các sản phẩm nông nghiệp thân thiện với môi trường, đặc biệt trong bối cảnh các quy định về carbon biên giới ngày càng khắt khe.

Các mô hình HTX tự chủ như HTX Thạnh An (Kiên Giang) hay HTX Tân Tiến (Sóc Trăng) đã sử dụng chính sách hỗ trợ của Nghị định số 98 để đầu tư vào máy móc, thiết bị sấy, kho chứa và xây dựng thương hiệu, giúp họ tự tin ký kết hợp đồng xuất khẩu trực tiếp, giảm sự phụ thuộc vào thương lái và doanh nghiệp trung gian.

Việt Nam là quốc gia có lợi thế lớn về cây ăn quả nhiệt đới, và liên kết theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP là động lực thúc đẩy việc chuẩn hóa chất lượng để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu chính ngạch.

Điển hình Sầu riêng Tiền Giang. Sầu riêng là một trong những loại trái cây xuất khẩu chủ lực, được hưởng lợi lớn từ việc áp dụng quy chuẩn trong liên kết. Tại Tiền Giang, mô hình liên kết do HTX Sầu riêng Cai Lậy chủ trì, với sự tham gia của các hộ dân và doanh nghiệp thu mua, đã giúp tăng nhanh diện tích đạt mã số vùng trồng và tiêu chuẩn VietGAP.

HTX thực hiện vai trò tổ chức sản xuất, giám sát quy trình và đăng ký mã số vùng trồng, đáp ứng yêu cầu khắt khe của đối tác nước ngoài (chủ yếu là thị trường Trung Quốc). Liên kết này đã chuyển hoạt động tiêu thụ từ tiểu ngạch sang xuất khẩu chính ngạch, tăng sự ổn định và minh bạch trong giao dịch. Tuy nhiên, tại Hội nghị sơ kết 6 năm thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp cũng chỉ rõ HTX này đang đối mặt với hạn chế là "Phụ thuộc thị trường Trung Quốc; rủi ro thương mại". Điều này đã được Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng nhấn mạnh tầm quan trọng về việc đa dạng hóa thị trường và tăng cường năng lực thương mại, tránh để liên kết trở nên mong manh khi thị trường biến động.

Thành công của Nhãn Đồng Tháp và Thanh Long Long An. HTX Nhãn Châu Thành (Đồng Tháp) đã sử dụng chính sách để đầu tư vào quy trình sản xuất nhãn theo tiêu chuẩn, tham gia vào Chương trình OCOP và tích cực mở rộng liên kết tiêu thụ cả trong nước và xuất khẩu. Sự liên kết này đã giúp sản phẩm của họ "Tạo thương hiệu OCOP, sản phẩm đặc sản", nâng cao giá trị gia tăng so với bán nhãn tươi thông thường.

Tương tự, HTX Thanh long Châu Thành (Long An) đã xây dựng mô hình liên kết khép kín, từ việc chuẩn hóa quy trình trồng đến chế biến sâu và xuất khẩu, góp phần củng cố vị thế của Việt Nam trên thị trường thanh long thế giới.

anh-2-120201_246-120201-141838_1763561973.webp
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam và các đại biểu tham quan gian hàng OCOP Đồng Tháp tại Diễn đàn OCOP 2025 - An Giang. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Nâng cao nội lực: Hợp tác xã - Chủ thể kiến tạo thương hiệu và OCOP

Nghị định số 98/2018/NĐ-CP đã tạo điều kiện cho các chủ thể nhỏ lẻ, đặc biệt là HTX, vươn lên trở thành người kiến tạo thương hiệu cho sản phẩm địa phương, thông qua việc hỗ trợ chi phí đầu tư hạ tầng, bao bì, tem nhãn và xúc tiến thương mại.

Chính sách hỗ trợ liên kết đã giúp nhiều đặc sản vùng cao và OCOP thoát khỏi tình trạng sản xuất manh mún, không có thương hiệu, bước vào hệ thống phân phối hiện đại.

Điển hình là mô hình mật ong Minh Bảo (Lào Cai). Liên kết do HTX ong mật chủ trì, bao gồm các hộ nuôi ong. Đây là một ví dụ điển hình về việc sử dụng chính sách hỗ trợ cho các sản phẩm có sản lượng nhỏ nhưng giá trị cao.

HTX được hỗ trợ về bao bì, tem nhãn, và tiêu thụ hàng nghìn lít mật ong, giúp sản phẩm được công nhận OCOP. Mặc dù mô hình cũng có những hạn chế về "Sản lượng nhỏ, thị trường hạn chế", nhưng sự hỗ trợ này đã tạo tiền đề để sản phẩm "Đặc sản vùng cao" này có được định vị thương hiệu, thay vì chỉ bán mật thô. Đây là bước đi quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển các sản phẩm bản địa.

Mô hình Gạo Bạch Hà do HTX Bạch Hà (Lào Cai) chủ trì, liên kết với 50 hộ nông dân. HTX đã trồng 50 ha lúa, tập trung xây dựng tem và thương hiệu gạo đặc sản. Sản phẩm có thương hiệu riêng và giá trị tăng lên đáng kể. Mô hình này cũng mang lại bài học sâu sắc về vấn đề niềm tin và tính pháp lý của hợp đồng, khi tài liệu nêu rõ rào cản là "Dễ phá vỡ hợp đồng khi giá lúa tăng". Đây là minh chứng cho nhận định của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng rằng, liên kết phải được xây dựng dựa trên "niềm tin, trách nhiệm và chia sẻ lợi ích" để vượt qua các biến động thị trường.

Các mô hình thành công nhất đều là các mô hình liên kết đa chiều, không chỉ giữa nông dân và doanh nghiệp mà còn có sự tham gia của các tổ chức khác. Nhiều dự án lớn đã thành công nhờ sự tham gia của ngân hàng (cung cấp vốn linh hoạt) và các Viện/Trường (chuyển giao công nghệ). Ví dụ, việc áp dụng các tiêu chuẩn canh tác VietGAP, GlobalGAP trong các mô hình cây ăn trái đã được hỗ trợ mạnh mẽ bởi các đơn vị khoa học.

Sự vào cuộc quyết liệt của các Sở NN&PTNT (trước đây) và nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường trong việc tư vấn, thẩm định dự án và giải ngân vốn là yếu tố quyết định. Tham luận của các địa phương như An Giang, Cần Thơ, và Sơn La tại Hội nghị đã chia sẻ kinh nghiệm về việc đơn giản hóa thủ tục và tập trung nguồn lực cho các dự án điểm, giúp các mô hình liên kết nhanh chóng đi vào thực tiễn.

Hướng tới tương lai bền vững: Bảo vệ và nhân rộng

Thành công của gần 3.000 dự án liên kết chỉ là bước khởi đầu. Mục tiêu tiếp theo của ngành nông nghiệp là bảo vệ những thành quả này và nhân rộng các mô hình hiệu quả, dựa trên định hướng chiến lược từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

Để đảm bảo các chuỗi giá trị nông nghiệp tiếp tục phát triển bền vững và không bị ảnh hưởng bởi những "điểm nghẽn" đã phân tích ở Kỳ 1, cần tập trung vào các giải pháp cụ thể hóa ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo ngành.

htx-nd98-01-102103_434-110426_1763562189.webp
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng nhấn mạnh: “Liên kết chuỗi giá trị là chìa khóa thể chế cho nền nông nghiệp hiện đại, thích ứng biến đổi khí hậu và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đây không chỉ là chỉ đạo, mà còn là định hướng chiến lược cho tương lai ngành nông nghiệp Việt Nam”.

Thứ trưởng Võ Văn Hưng đã đặt ra yêu cầu phải "Thúc đẩy sự gắn kết chặt chẽ giữa ‘bốn nhà’: Nhà nông - Nhà doanh nghiệp - Nhà khoa học - Nhà nước (và ngân hàng), hình thành hệ sinh thái nông nghiệp thống nhất từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ, dựa trên niềm tin, trách nhiệm và chia sẻ lợi ích". Đây chính là công thức để các mô hình điển hình có thể tự đứng vững.

Chuẩn hoá và số hoá chuỗi cung ứng. Việc nhân rộng các mô hình như Sầu riêng Tiền Giang, Thanh long Long An cần đi đôi với việc số hóa dữ liệu theo chỉ đạo của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng: "Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu số quốc gia về vùng liên kết, cây trồng, vật nuôi, sản phẩm chủ lực và đất đai". Hệ thống số sẽ giúp các DN xuất khẩu dễ dàng xác minh nguồn gốc và chất lượng sản phẩm, loại bỏ các rào cản kỹ thuật từ thị trường nhập khẩu. Đối với các sản phẩm đặc sản vùng cao như Mật ong Minh Bảo, số hóa sẽ giúp kiểm soát sản lượng và chất lượng, bảo vệ thương hiệu OCOP khỏi hàng giả, hàng kém chất lượng.

Nâng cao năng lực quản trị Hợp tác xã. Thách thức về năng lực quản trị HTX là cốt lõi. Để HTX thực sự làm chủ liên kết (như HTX Bạch Hà hay HTX Cai Lậy), cần có chương trình hỗ trợ đào tạo chuyên sâu về tài chính, quản trị rủi ro hợp đồng và đàm phán thương mại. Chính sách sửa đổi Nghị định số 98/2018/NĐ-CP sắp tới cần có cơ chế hỗ trợ trực tiếp và mạnh mẽ hơn cho việc thuê chuyên gia quản lý hoặc đào tạo cán bộ HTX, giúp họ chuyển từ vai trò "sản xuất" sang vai trò "kinh doanh".

Đa dạng hoá thị trường và chế biến sâu. Để giảm thiểu rủi ro thương mại, nhất là đối với các sản phẩm phụ thuộc lớn vào một thị trường như sầu riêng, liên kết cần được mở rộng sang lĩnh vực chế biến sâu và đa dạng hóa kênh tiêu thụ. Các dự án liên kết cần được ưu tiên hỗ trợ đầu tư công nghệ chế biến, không chỉ dừng lại ở xuất khẩu thô, nhằm nâng cao khả năng chống chịu của chuỗi giá trị trước những biến động địa chính trị và thị trường.

Sau 06 năm, Nghị định số 98/2018/NĐ-CP đã hoàn thành xuất sắc vai trò kiến tạo, biến các ý tưởng về liên kết thành những mô hình kinh tế sống động, từ những cánh đồng lúa tỷ đô ở ĐBSCL đến các sản phẩm OCOP mang tính bản địa ở vùng cao Yên Bái. Tổng cộng 2.938 dự án liên kết là thành quả của sự đồng lòng giữa Nhà nước, Doanh nghiệp và Nông dân.

Thành công này là minh chứng cho thấy, khi có một chính sách đúng đắn và sự tham gia chủ động của các chủ thể, nông nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể chuyển mình mạnh mẽ, hướng tới mục tiêu phát triển "sinh thái, hiện đại, hội nhập và bền vững" như định hướng của lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Thách thức lớn nhất hiện nay không phải là thiếu mô hình, mà là việc hoàn thiện thể chế để bảo vệ và nhân rộng các mô hình đó, đảm bảo rằng lợi ích từ chuỗi giá trị được chia sẻ công bằng và bền vững cho hơn 211.000 nông hộ đã tin tưởng tham gia vào hành trình liên kết này.

Trong Kỳ 2, chúng ta đã cùng nhau nhìn nhận những mô hình liên kết nông nghiệp thành công, góp phần nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam. Tuy nhiên, để nông nghiệp tiếp tục phát triển bền vững và đi vào chiều sâu, không thể không nhắc đến những thách thức lớn về thể chế, tài chính và đất đai. Chính vì vậy, trong Kỳ báo 3 với tiêu đề 'Tháo gỡ ba nút thắt thể chế để nông nghiệp liên kết đi vào chiều sâu', Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường sẽ cùng phân tích những rào cản cản trở sự phát triển của gần 3.000 dự án liên kết, đồng thời tìm kiếm các giải pháp và chiến lược để tháo gỡ những vướng mắc này, hướng tới một nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả và bền vững.

Hồng Minh