news

Kỳ 3: Quản lý đê điều và sạt lở trước thiên tai cực đoan - Nâng cao năng lực chống chịu từ chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường

Chủ nhật, 21/12/2025, 07:41 (GMT+7)
logo Qua ba kỳ phản ánh thực tiễn thiên tai cực đoan năm 2025, loạt bài cho thấy yêu cầu cấp thiết phải chuyển từ ứng phó tình huống sang quản lý rủi ro, trong đó quản lý an toàn hệ thống đê điều và kiểm soát sạt lở giữ vai trò then chốt. Với sự chỉ đạo, điều phối xuyên suốt của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các giải pháp dựa trên dự báo, giám sát và phòng ngừa từ sớm đang từng bước nâng cao năng lực chống chịu của hạ tầng và cộng đồng trước thiên tai.

Từ ứng phó tình huống sang quản lý rủi ro dài hạn

img_0023-160735_646-162418_1766046191.webp
Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp chủ trì cuộc họp ứng phó với bão Bualoi ngày 26/9/2025.
                                                                               Ảnh: Trung Hiếu.

Năm 2025 khép lại với những dấu ấn đặc biệt trong bức tranh thiên tai ở Việt Nam. Các hiện tượng thời tiết cực đoan không chỉ gia tăng về tần suất và cường độ mà còn diễn biến phức tạp, khó lường, tác động trên phạm vi rộng và kéo dài. Mưa lớn diện rộng, bão mạnh, lũ lớn, lũ đặc biệt lớn, triều cường, nước dâng do bão cùng với sạt lở đất, sạt lở bờ sông, bờ biển đã tạo ra những rủi ro “đa thiên tai”, đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với công tác phòng, chống thiên tai.

Theo Báo cáo tổng kết công tác năm 2025 của Cục Khí tượng Thủy văn và Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia, trong năm 2025, Việt Nam đã ghi nhận 18/22 loại hình thiên tai, trong đó nhiều hiện tượng xuất hiện với cường độ và tần suất vượt trung bình nhiều năm, thậm chí vượt giá trị lịch sử. Thiên tai không còn diễn ra đơn lẻ mà có xu hướng chồng lấn, nối tiếp, gây áp lực lớn lên hệ thống đê điều, hạ tầng và đời sống dân sinh.

Trong bối cảnh đó, thực tiễn năm 2025 cho thấy, công tác phòng, chống thiên tai cần được tiếp cận theo hướng quản lý rủi ro dài hạn, trong đó quản lý an toàn hệ thống đê điều và kiểm soát sạt lở trở thành trọng tâm then chốt. Với vai trò là cơ quan đầu mối, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã tập trung chỉ đạo, điều phối và triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao năng lực chống chịu của hệ thống đê điều, giảm thiểu rủi ro sạt lở, góp phần bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản của Nhân dân và ổn định phát triển kinh tế - xã hội.

THIÊN TAI NĂM 2025

Năm 2025, Việt Nam ghi nhận 18/22 loại hình thiên tai xảy ra trên phạm vi cả nước.

15 cơn bão và 6 áp thấp nhiệt đới hoạt động trên Biển Đông; 7 cơn bão và 1 ATNĐ ảnh hưởng trực tiếp đến đất liền.

22 đợt mưa lớn diện rộng, nhiều nơi có lượng mưa cao hơn trung bình nhiều năm từ 30-80%, có nơi trên 100%.

38 đợt lũ quét và sạt lở đất nghiêm trọng tại 22 tỉnh, tập trung ở miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên.

(Theo Báo cáo tổng kết công tác năm 2025 của Cục Khí tượng Thủy văn)

Thiên tai cực đoan năm 2025 và những rủi ro cấu trúc đối với đê điều, sạt lở

Bức tranh khí tượng thủy văn năm 2025 phản ánh rõ xu thế gia tăng của các hiện tượng thời tiết cực đoan trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu. Theo đánh giá của Cục Khí tượng Thủy văn, giai đoạn 2015-2025 là thời kỳ nóng lên mạnh nhất trong lịch sử quan trắc, với nhiệt độ trung bình toàn cầu liên tục lập kỷ lục mới. Riêng trong năm 2025, nhiệt độ trung bình tại nhiều khu vực ở Việt Nam cao hơn trung bình nhiều năm, trong khi lượng mưa phân bố không đều và có xu hướng gia tăng mạnh trong mùa mưa.

Từ tháng 6 đến tháng 11/2025, tổng lượng mưa tại nhiều khu vực Bắc Bộ và Trung Bộ cao hơn trung bình nhiều năm từ 30-80%, có nơi vượt trên 100%, xuất hiện nhiều đợt mưa lớn kỷ lục. Các đợt mưa kéo dài nhiều ngày đã làm gia tăng nguy cơ lũ lớn, lũ đặc biệt lớn trên nhiều hệ thống sông, gây áp lực trực tiếp lên các tuyến đê sông, đê biển và công trình thủy lợi.

Cùng với mưa lớn và lũ, năm 2025 ghi nhận 15 cơn bão và 6 áp thấp nhiệt đới hoạt động trên Biển Đông, trong đó 7 cơn bão và 1 áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng trực tiếp đến đất liền Việt Nam. Bão mạnh kết hợp với sóng lớn, nước dâng do bão và triều cường đã làm gia tăng nguy cơ xói lở, sạt lở tại các tuyến đê, kè biển và khu vực ven sông, ven biển.

Đáng chú ý, sạt lở đất và sạt lở bờ sông, bờ biển tiếp tục là một trong những rủi ro nghiêm trọng nhất trong năm 2025. Theo báo cáo, cả nước đã xảy ra 38 đợt lũ quét và sạt lở đất nghiêm trọng tại 22 tỉnh, chủ yếu ở khu vực trung du, miền núi Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ và một số tỉnh Tây Nguyên. Nhiều vụ sạt lở xảy ra không chỉ trong thời điểm mưa lớn mà còn xuất hiện sau mưa hoặc khi mưa đã giảm, cho thấy tính chất tích lũy và khó lường của loại hình thiên tai này.

Những diễn biến trên cho thấy, trong bối cảnh thiên tai cực đoan, đê điều và sạt lở không chỉ là những sự cố riêng lẻ mà là rủi ro cấu trúc, gắn với biến đổi khí hậu, địa hình, thủy văn và sự thay đổi của chế độ dòng chảy. Điều này đòi hỏi công tác phòng, chống thiên tai phải được tiếp cận theo hướng quản lý rủi ro dài hạn, thay vì chỉ tập trung xử lý sự cố khi thiên tai xảy ra.

image-6_1766046536.webp
Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long xảy ra hơn 120 điểm sạt lở với tổng chiều dài hơn 7km, ảnh hưởng hàng trăm hộ dân, thiệt hại hàng chục tỷ đồng. Tình trạng sạt lở cũng đang diễn biến phức tạp ở nhiều khu vực trọng điểm, ảnh hưởng đến giao thông, sinh hoạt, sản xuất của người dân.

Quản lý an toàn hệ thống đê điều và kiểm soát sạt lở - nhiệm vụ trọng tâm trong chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường

Trước thực tiễn thiên tai năm 2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xác định rõ quản lý an toàn hệ thống đê điều và kiểm soát sạt lở là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác phòng, chống thiên tai. Cách tiếp cận này được triển khai xuyên suốt từ khâu dự báo, cảnh báo đến chỉ đạo điều hành và tổ chức ứng phó tại cơ sở.

Theo Báo cáo tổng kết công tác năm 2025 của Cục Khí tượng Thủy văn, trong năm qua, hệ thống dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn quốc gia đã được vận hành liên tục, với 7.003 bản tin được ban hành, trong đó có 2.413 bản tin dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn nguy hiểm. Các bản tin này cung cấp kịp thời thông tin về mưa lớn, lũ, bão, triều cường và nguy cơ sạt lở, làm cơ sở quan trọng để Bộ Nông nghiệp và Môi trường chỉ đạo công tác bảo đảm an toàn đê điều và phòng ngừa sạt lở.

Trên cơ sở thông tin dự báo, Bộ đã chỉ đạo các địa phương tăng cường theo dõi diễn biến mực nước trên các sông, kiểm tra hiện trạng đê điều, kịp thời phát hiện và xử lý các sự cố như thẩm lậu, sạt trượt, xói lở chân đê. Công tác vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông tiếp tục được thực hiện nghiêm túc theo quy trình đã được phê duyệt, góp phần cắt giảm đỉnh lũ, giảm áp lực cho hạ du và hệ thống đê điều.

Đối với sạt lở, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã chỉ đạo tăng cường công tác khoanh vùng nguy cơ, đặc biệt tại các khu vực miền núi, ven sông, ven biển và khu vực hạ du các hồ chứa. Thông tin cảnh báo sạt lở được cung cấp sớm cho các địa phương, giúp chính quyền cơ sở chủ động xây dựng phương án di dời dân cư, bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản của người dân.

Cách tiếp cận này thể hiện rõ vai trò điều phối, chỉ đạo thống nhất của Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong quản lý rủi ro đê điều và sạt lở, góp phần nâng cao hiệu quả phòng, chống thiên tai trong điều kiện thiên tai ngày càng cực đoan.

ab14033a-f343-49cd-bbbf-cc4e6f95590e_1766047568.webp
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng kiểm tra thực tế điểm có nguy cơ sạt lở tại bản Nậm Manh - Lai Châu. Tham gia Đoàn kiểm tra có đồng chí Hà Trọng Hải - Phó Chủ tịch UBND tỉnh; đại diện lãnh đạo các sở, ngành: Nông nghiệp và Môi trường, Xây dựng, Văn phòng UBND tỉnh, Ban QLDA đầu tư xây dựng các công trình Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh; đại diện lãnh đạo Đảng ủy, UBND và một số phòng, ban của xã Nậm Hàng.

Chuyển từ ứng phó sự cố sang quản lý rủi ro đê điều và sạt lở

Một trong những điểm nhấn quan trọng trong công tác phòng, chống thiên tai năm 2025 là sự chuyển dịch tư duy từ “ứng phó sự cố” sang “quản lý rủi ro”. Đối với lĩnh vực đê điều và sạt lở, sự chuyển dịch này càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh thiên tai cực đoan.

Theo định hướng của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, quản lý đê điều không chỉ dừng lại ở việc gia cố, sửa chữa khi xảy ra sự cố mà cần được thực hiện trên cơ sở theo dõi, giám sát liên tục, đánh giá nguy cơ và chủ động phòng ngừa. Việc quản lý sạt lở cũng cần được tiếp cận theo hướng tổng thể, gắn với đặc điểm địa hình, địa chất, thủy văn và biến đổi dòng chảy.

Trong năm 2025, Hệ thống cảnh báo lũ quét, sạt lở đất thời gian thực tiếp tục được vận hành và hoàn thiện, cho phép đánh giá nguy cơ sạt lở theo không gian và thời gian, hỗ trợ hiệu quả cho công tác chỉ đạo điều hành. Hệ thống này được cập nhật theo địa giới hành chính mới từ ngày 1/7/2025, giúp thông tin cảnh báo đến đúng địa bàn, đúng đối tượng.

Bên cạnh đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã chỉ đạo triển khai dự báo dựa trên tác động, tích hợp các yếu tố về mức độ phơi lộ, mức độ dễ bị tổn thương của dân cư và hạ tầng vào công tác dự báo, cảnh báo. Cách tiếp cận này giúp các địa phương không chỉ nhận biết nguy cơ thiên tai mà còn chủ động đánh giá mức độ ảnh hưởng đối với hệ thống đê điều, khu dân cư và hạ tầng thiết yếu, từ đó xây dựng phương án ứng phó phù hợp.

Việc chuyển từ ứng phó sự cố sang quản lý rủi ro cũng thể hiện ở việc gắn công tác phòng, chống sạt lở với bảo vệ đê điều và quy hoạch phát triển. Điều này giúp giảm thiểu nguy cơ phát sinh rủi ro mới, nâng cao hiệu quả đầu tư và quản lý hạ tầng trong dài hạn.

Giải pháp dài hạn nâng cao năng lực chống chịu của hệ thống đê điều và kiểm soát sạt lở

Song song với các giải pháp trước mắt, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã định hướng nhiều giải pháp dài hạn nhằm nâng cao năng lực chống chịu của hệ thống đê điều và kiểm soát sạt lở trong bối cảnh biến đổi khí hậu.

Một trong những trụ cột quan trọng là đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý đê điều và phòng, chống sạt lở. Theo báo cáo, Hệ thống giám sát thiên tai thời gian thực đã tích hợp dữ liệu từ mạng lưới trạm mưa, trạm thủy văn, trạm hải văn và hệ thống vận hành hồ chứa, cho phép theo dõi diễn biến mưa, lũ, mực nước và nguy cơ sạt lở theo thời gian thực. Đây là công cụ quan trọng giúp nâng cao năng lực giám sát, cảnh báo và chỉ đạo điều hành.

Đối với hệ thống đê điều, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục định hướng kết hợp hài hòa giữa giải pháp công trình và phi công trình, trong đó chú trọng nâng cao hiệu quả quản lý, vận hành, tăng cường kiểm tra, phát hiện sớm sự cố và xử lý kịp thời. Việc nâng cao năng lực cán bộ quản lý đê điều, tăng cường phối hợp giữa các cấp, các ngành cũng được xác định là yếu tố quan trọng để bảo đảm an toàn hệ thống đê điều trong điều kiện thiên tai cực đoan.

Trong quản lý sạt lở, Bộ chú trọng tăng cường công tác điều tra, đánh giá, lập bản đồ phân vùng nguy cơ, làm cơ sở cho việc bố trí dân cư, quy hoạch sử dụng đất và đầu tư hạ tầng. Việc kết hợp các giải pháp kỹ thuật với nâng cao nhận thức cộng đồng được coi là hướng đi bền vững, giúp giảm thiểu thiệt hại và nâng cao khả năng thích ứng của người dân trước rủi ro sạt lở.

Thực tiễn thiên tai năm 2025 cho thấy, Việt Nam đang bước vào giai đoạn phải đối mặt với những thách thức ngày càng lớn, khi thiên tai không chỉ gia tăng về cường độ và tần suất mà còn diễn biến phức tạp, khó lường hơn. Trong bối cảnh đó, quản lý an toàn hệ thống đê điều và kiểm soát sạt lở đã và đang trở thành trọng tâm trong công tác phòng, chống thiên tai.

Với vai trò điều phối, chỉ đạo xuyên suốt, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã từng bước chuyển dịch cách tiếp cận từ ứng phó tình huống sang quản lý rủi ro dài hạn, dựa trên nền tảng khoa học, dự báo sớm và giám sát liên tục. Những giải pháp được triển khai trong năm 2025 không chỉ góp phần giảm thiểu thiệt hại trước mắt mà còn tạo nền tảng quan trọng để nâng cao năng lực chống chịu của hệ thống đê điều, hạ tầng và cộng đồng trước thiên tai cực đoan, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững trong những năm tới.

 

Hồng Minh