news

PGS, TS. Kim Văn Vạn: Thay đổi nhận thức và tăng cường liên kết doanh nghiệp để thu hút nhân lực thủy sản

Thứ năm, 4/12/2025, 22:27 (GMT+7)
logo Trước sự sụt giảm mạnh nguồn tuyển sinh trong các ngành nông nghiệp, đặc biệt là thủy sản, PGS, TS. Kim Văn Vạn, Trưởng khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã có cuộc trao đổi với phóng viên Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường về nguyên nhân, thách thức và những giải pháp mà ngành đang triển khai nhằm thu hút người học và nâng cao chất lượng đào tạo. Cuộc trò chuyện cũng nêu rõ vai trò Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị đối với định hướng phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp, thủy sản trong bối cảnh mới.
a-van-bai-1_1764780650.webp
PGS, TS. Kim Văn Vạn (thứ hai bên phải) trao đổi với phóng viên tại khu nghiên cứu thực nghiệm thủy sản

PV: Thưa ông, thời gian qua công tác tuyển sinh và đào tạo các ngành nông nghiệp nói chung và thủy sản nói riêng gặp nhiều khó khăn, số lượng sinh viên giảm mạnh. Theo ông nguyên nhân xuất phát từ đâu?

PGS, TS. Kim Văn Vạn: Thời gian vừa qua, các ngành thuộc khối nông nghiệp nói chung và ngành thủy sản nói riêng tại nhiều trường đại học gặp không ít khó khăn trong công tác tuyển sinh và đào tạo. Số lượng sinh viên theo học các ngành này giảm đáng kể. 

Theo chúng tôi, có thể thấy một số nguyên nhân chính sau đây:

Thứ nhất, mặc dù cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp các ngành nông nghiệp và thủy sản hiện nay rất tốt, nhu cầu nhân lực của xã hội lớn, nhưng xu hướng lựa chọn ngành nghề của giới trẻ lại không nghiêng về các lĩnh vực này. Đây không chỉ là hiện tượng ở Việt Nam; khi chúng tôi sang Trung Quốc hay Thái Lan, các đồng nghiệp ở đó cũng ghi nhận tình trạng tương tự. Nhiều bạn trẻ hiện nay có tâm lý không muốn theo các ngành được nhìn nhận là “truyền thống”, “vất vả”, hay gắn với hình ảnh “chân lấm tay bùn”, trong khi lại thích các ngành liên quan đến công nghệ thông tin, máy tính, hoặc các công việc văn phòng hiện đại, điều kiện làm việc “mát mẻ” hơn.

Thứ hai, có một phần do tác động của truyền thông và nhận thức xã hội. Trong chuyến công tác gần đây tại Đại học Nam Kinh (Trung Quốc), khi trao đổi với sinh viên và giảng viên, chúng tôi nhận được cùng một câu hỏi: “Tại sao ngành nông nghiệp và thủy sản có cơ hội việc làm tốt mà lại ít người học”. Thực tế, nhiều bạn trẻ chưa hiểu rõ giá trị, tiềm năng và mức thu nhập của các nghề trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản. Ngược lại, nhiều ngành khác dù cơ hội việc làm bão hòa, cạnh tranh cao và thu nhập không quá nổi bật nhưng vẫn được lựa chọn vì trào lưu hoặc kỳ vọng xã hội.

Thứ ba, một bộ phận học sinh phổ thông giỏi nhưng do áp lực phải vào các “trường top”, không theo đuổi đúng đam mê và năng lực thật sự của mình. Điều này vô tình khiến các ngành sản xuất vật chất, vốn rất cần nhân lực giỏi, dần bị thu hẹp nguồn tuyển.

Thực tế, trong những thập kỷ trước, khi đất nước còn thiếu lương thực, thực phẩm, chúng ta mới thấy hết vai trò quan trọng của nông nghiệp. Ngay cả trong đại dịch COVID-19, nông nghiệp chính là trụ đỡ quan trọng, đảm bảo nguồn cung thực phẩm ổn định cho xã hội. Tuy nhiên, nhiều bạn trẻ ngày nay không còn trực tiếp trải qua những thời điểm khó khăn đó, nên chưa thực sự nhìn nhận đúng vai trò thiết yếu của ngành.

Tuy vậy, những năm gần đây đang bắt đầu xuất hiện tín hiệu tích cực. Các khối ngành kỹ thuật trong nông nghiệp đã có sự chuyển dịch. Chẳng hạn, Học viện Nông nghiệp Việt Nam năm vừa qua đạt kết quả tuyển sinh khả quan hơn. Khi truyền thông được đẩy mạnh, thông tin rõ ràng, chúng tôi tin rằng người trẻ sẽ hiểu hơn về những cơ hội lớn trong lĩnh vực này.

Hiện nay, nông nghiệp không còn chỉ là “làm ruộng” như quan niệm cũ. Chúng ta có nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp đô thị, nông nghiệp gắn với sở thích như cây cảnh, cá cảnh, thú cưng,… Những xu hướng mới này đang thu hút nhiều người trẻ. Đồng thời, thủy sản, một ngành xuất khẩu mũi nhọn đang rất cần đội ngũ nhân lực chất lượng cao.

Chúng tôi kỳ vọng rằng trong những năm tới, cùng với sự thay đổi về nhận thức, sự hỗ trợ của truyền thông và sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp hiện đại, các ngành nông nghiệp và thủy sản sẽ thu hút trở lại nhiều sinh viên. Qua đó, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, góp phần nâng cao đời sống và phát triển bền vững xã hội.

a-van-bai-2_1764780953.webp
PGS, TS. Kim Văn Vạn trao đổi cùng nhóm sinh viên quốc tế tại khu thực nghiệm nuôi trồng thủy sản của Học viện Nông nghiệp Việt Nam

PV: Là người quản lý công tác đào tạo, ông đánh giá thế nào về phong trào nghiên cứu khoa học và khả năng gắn kết với doanh nghiệp của sinh viên Khoa Thủy sản?

PGS, TS. Kim Văn Vạn: Với vai trò là người phụ trách công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học của sinh viên, tôi xin chia sẻ một vài đánh giá về hoạt động nghiên cứu khoa học cũng như việc gắn kết giữa đào tạo và doanh nghiệp.

Trong khối các khoa thuộc lĩnh vực Nông nghiệp của Học viện Nông nghiệp Việt Nam, ngành Thủy sản là một trong những đơn vị luôn đặc biệt quan tâm đến hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên. Mặc dù số lượng sinh viên ngành không quá đông, điều này lại tạo điều kiện để giảng viên có nhiều thời gian hơn để hướng dẫn, đồng hành và chuyển giao kinh nghiệm nghiên cứu cho các em.

Nhờ sự đầu tư đó, sinh viên ngành Thủy sản thường xuyên đạt được nhiều giải thưởng cao trong các cuộc thi nghiên cứu khoa học uy tín, như giải của Bitexco, giải Euréka, hay các giải thưởng do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức. Điều này cho thấy năng lực nghiên cứu của sinh viên ngành Thủy sản rất nổi bật so với mặt bằng chung.

Bên cạnh đó, việc gắn kết nghiên cứu khoa học của sinh viên với doanh nghiệp mang lại giá trị thiết thực. Khi sinh viên được tiếp cận doanh nghiệp ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, các em rút ngắn được khoảng cách giữa lý thuyết và thực tế sản xuất. “Trăm nghe không bằng một thấy”, và việc được trực tiếp tham gia vào các hoạt động sản xuất, các mô hình công nghệ mới của doanh nghiệp giúp sinh viên trưởng thành nhanh hơn, bắt nhịp tốt hơn với yêu cầu nghề nghiệp sau khi ra trường.

Ngoài nguồn đầu tư cho nghiên cứu khoa học từ Học viện Nông nghiệp Việt nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, chúng tôi còn nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp tài trợ kinh phí, cung cấp vật tư, thiết bị, đưa sản phẩm vào các đề tài nghiên cứu, đồng thời phối hợp chặt chẽ với giảng viên và sinh viên trong quá trình triển khai.

Nhờ đó, mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp ngày càng bền chặt. Các kết quả nghiên cứu không chỉ mang ý nghĩa khoa học mà còn được ứng dụng ngay vào thực tế, chuyển giao cho bà con nông dân, góp phần trực tiếp vào sản xuất.

Có thể nói, sự phối hợp giữa đào tạo, nghiên cứu, doanh nghiệp đang tạo nên một hệ sinh thái rất hiệu quả cho sinh viên ngành Thủy sản, giúp các em có hành trang vững chắc hơn khi bước vào thị trường lao động, đồng thời đóng góp tích cực vào sự phát triển của ngành.

bai_1764781390.webp
PGS, TS. Kim Văn Vạn cùng nhóm sinh viên tham quan và trao đổi tại ao nuôi thủy sản thực nghiệm của Học viện Nông nghiệp Việt Nam

PV: Theo ông, những thách thức lớn nhất đối với đào tạo nhân lực thủy sản hiện nay? Và cần có giải pháp gì để cải thiện?

PGS, TS. Kim Văn Vạn: Liên kết với doanh nghiệp là một yếu tố then chốt, nhưng bên cạnh đó, ngành thủy sản vẫn đang đối mặt với những thách thức lớn trong công tác đào tạo hiện nay. Theo tôi, thách thức lớn nhất nằm ở chất lượng và số lượng đầu vào của sinh viên.

Như đã chia sẻ, hiện nay nhiều bạn trẻ có năng lực tốt nhưng chưa nhìn nhận đúng tiềm năng và lợi thế của ngành thủy sản nói riêng và ngành nông nghiệp nói chung tại Việt Nam. Các em chưa thực sự hiểu về quy mô, mức độ phát triển, cũng như giá trị kinh tế mà ngành mang lại. Chính vì vậy, việc thu hút những học sinh giỏi, có đam mê và định hướng rõ ràng vào ngành vẫn còn gặp nhiều khó khăn.

Để giải quyết vấn đề này, công tác truyền thông cần được đặt lên hàng đầu. Cần đẩy mạnh cung cấp thông tin chính xác, hấp dẫn và hiện đại thông qua các nền tảng mạng xã hội, các kênh truyền thông trực tuyến để giúp học sinh và phụ huynh hiểu rõ hơn về cơ hội nghề nghiệp, thu nhập, cũng như vai trò của ngành thủy sản trong nền kinh tế. Khi có được đầu vào tốt, chúng ta mới có thể đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành.

Bên cạnh đó, việc khơi dậy đam mê cho người học là yếu tố quan trọng. Khi hiểu rõ giá trị nghề nghiệp, các bạn trẻ sẽ có động lực gắn bó với ngành lâu dài. Và chính những người có đam mê, có năng lực sẽ là lực lượng đem các sản phẩm thủy sản của Việt Nam vươn ra mạnh mẽ hơn trên thị trường quốc tế.

Ngoài ra, ngành thủy sản không chỉ dừng lại ở xuất khẩu sản phẩm thô. Xu hướng hiện nay là phát triển các sản phẩm chế biến sâu, nâng cao giá trị, cải thiện chất lượng và gia tăng thu nhập cho người lao động. Điều này tạo ra một chuỗi giá trị bền vững cho toàn ngành, từ sản xuất đến chế biến và thương mại.

Tóm lại, giải pháp quan trọng nhất là thu hút đầu vào chất lượng thông qua truyền thông hiệu quả, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh liên kết với doanh nghiệp để sinh viên được tiếp cận thực tế. Khi kết hợp tốt những yếu tố này, ngành Thủy sản sẽ có điều kiện đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thị trường trong tương lai.

a-van-2_1764781516.webp
Khu nuôi thí điểm mô hình Khoa học kỹ thuật tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam

PV: Vừa qua, Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị được đánh giá là tạo ra sự đột phá về tư duy phát triển ngành. Với vai trò đơn vị đào tạo, Khoa Thủy sản đã triển khai định hướng theo nghị quyết này như thế nào, thưa ông?

PGS, TS. Kim Văn Vạn: Chúng tôi xác định rằng mọi hoạt động nghiên cứu phải luôn đi song hành với công tác đào tạo. Khi có nghị quyết và định hướng rõ ràng, chúng tôi lập tức cụ thể hóa bằng việc gắn kết chặt chẽ hai nhiệm vụ này. Bởi lẽ, đào tạo nhân lực không thể tách rời việc tiếp cận các sản phẩm và kết quả nghiên cứu. Khi sinh viên được học tập trong môi trường có nghiên cứu thực tiễn, hai yếu tố này sẽ bổ trợ cho nhau, giúp nâng cao hiệu quả học tập và chất lượng nguồn nhân lực.

Không chỉ dừng lại ở nghiên cứu và đào tạo, chúng tôi đặc biệt coi trọng việc chuyển giao kết quả nghiên cứu cho người sử dụng cuối cùng. Những thành quả khoa học không thể chỉ nằm trong “ngăn kéo”, mà phải được đưa vào thực tiễn một cách nhanh nhất. Vì vậy, chúng tôi liên tục phối hợp với các địa phương, các sở ban ngành và cơ sở sản xuất để triển khai các chương trình nghiên cứu, đào tạo, chuyển giao công nghệ.

Mặc dù đội ngũ giảng viên của chúng tôi không quá đông và số lượng sinh viên cũng không nhiều, nhưng đóng góp của tập thể đối với nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ luôn được ghi nhận rộng rãi. Nhiều năm qua, các hoạt động nghiên cứu của khoa đã tạo ra những giá trị thực tiễn rõ rệt, được các địa phương, doanh nghiệp và bà con nông dân biết đến và đánh giá cao.

Chính cách tiếp cận đồng bộ giữa nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao công nghệ đã giúp chúng tôi đảm bảo rằng mọi kết quả nghiên cứu đều thực sự mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và vị thế của ngành thủy sản trong những năm gần đây.

PV: Xin cảm ơn ông đã dành thời gian chia sẻ!

Sỹ Tùng - Mạnh Hải