Phát huy vai trò công tác giáo dục bảo vệ môi trường trong các trường học

Thứ năm, 17/10/2024, 16:54 (GMT+7)
logo Theo ghi nhận thực tế tại một số trường học ở nước ta, công tác giáo dục môi trường hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, chưa được chú trọng một cách toàn diện và hiệu quả. Trước thực trạng ô nhiễm môi trường hiện nay, việc trang bị cho thế hệ trẻ thường xuyên có ý thức và trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường (BVMT) đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Giáo dục môi trường còn nhiều bất cập

Biến đổi khí hậu đã và đang diễn ra thật khắc nghiệt, môi trường ngày càng thêm ô nhiễm, nhưng công tác tuyên truyền về vấn đề này vẫn chưa nhận được sự chú trọng đúng mức, đặc biệt là trong hệ thống giáo dục.

So sánh với các chương trình giáo dục khác như giáo dục giới tính hay phòng cháy chữa cháy,… có thể thấy rằng việc lồng ghép kiến thức về BVMT trong chương trình học chỉ mang tính chất hình thức và chưa thực sự đi vào chiều sâu. Các buổi học về phòng cháy chữa cháy thường được tổ chức một cách quy củ, có sự tham gia của lực lượng chuyên môn, trang bị cho học sinh từ bậc mầm non về kiến thức thực tế và kỹ năng ứng phó trong những tình huống khẩn cấp.

Tuy nhiên, đối với vấn đề BVMT, các hoạt động giáo dục chủ yếu dừng lại ở việc lồng ghép vài kiến thức cơ bản trong một số môn học như: Địa lý, Sinh học, mà không có chương trình riêng biệt hoặc những buổi học trải nghiệm thực tế để học sinh thực sự hiểu và có ý thức BVMT ngay từ nhỏ.

Vì vậy, sự thiếu hụt trong giáo dục môi trường có thể gây ra nhiều hệ quả tiêu cực cho thế hệ trẻ. Trong bối cảnh Việt Nam liên tục đối mặt với các vấn đề nghiêm trọng như ô nhiễm không khí, ô nhiễm rác thải nhựa hay sự suy giảm tài nguyên thiên nhiên, việc trang bị cho học sinh kiến thức đầy đủ về BVMT luôn là vấn đề điều cấp thiết và tiên quyết. Tuy nhiên, trên thực tế, phần lớn các học sinh, sinh viên vẫn còn thiếu hiểu biết cơ bản về cách phân loại rác, tái chế, hay các hành động BVMT hằng ngày.

Khi được hỏi về cách phân loại rác tại trường học, em Đào Lê Thảo Nhi - Học sinh lớp 5 tại Tiểu học Công nghệ giáo dục Hà Nội chia sẻ: “Hiện tại, em chưa được nhà trường hướng dẫn về cách phân loại rác.”

Em Đào Lê Thảo Nhi - Học sinh lớp 5 tại Tiểu học Công nghệ giáo dục Hà Nội

Có thể thấy rằng, việc thiếu các giờ học ngoại khóa về giáo dục môi trường không chỉ khiến các em thiếu đi kỹ năng sống cần thiết mà còn làm giảm khả năng nhận thức về trách nhiệm của bản thân đối với xã hội. Mỗi ngày, hàng ngàn tấn rác thải nhựa bị đổ ra môi trường, nhưng có bao nhiêu học sinh thực sự biết cách phân loại hay tái sử dụng chúng? Đây là câu hỏi còn bỏ ngỏ và đặt ra cho các nhà giáo dục và cơ quan quản lý có liên quan?.

Một vấn đề lớn khác là mặc dù các chiến dịch tuyên truyền về BVMT đã được triển khai rộng rãi trên truyền thông, nhưng việc thực hiện các hoạt động giáo dục môi trường trực tiếp trong các trường học vẫn còn nhiều hạn chế. Các hoạt động ngoại khóa về môi trường nếu có cũng thường mang tính chất phong trào, thiếu sự đầu tư và kế hoạch dài hạn. Điều này khiến các em khó có thể hình thành thói quen sống xanh và bền vững. Ngoài ra, sự thiếu sự liên kết giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác giáo dục môi trường cũng khiến cho việc nâng cao nhận thức cộng đồng trở nên rời rạc và kém hiệu quả.

Năm 1987, tại Hội nghị về môi trường ở Moscow do UNEP và UNESCO đồng tổ chức, đã đưa ra kết luận: “Giáo dục môi trường là một phương tiện không  thể thiếu để giúp mọi người hiểu biết về môi trường”. Hơn nữa, Chính phủ Việt Nam cũng đã nhận định, không có giải pháp nào kinh tế và hiệu quả bằng việc đầu tư vào con người thông qua công tác giáo dục môi trường.

Cần thay đổi tích cực từ phía nhà trường

Triển khai những định hướng, quyết sách nêu trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chỉ thị 02/2005/CT-BGDĐT về việc “Tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường”; Chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực…”

Trong môi trường giáo dục mầm non, nhà trường nên nuôi dưỡng ý thức cho con trẻ về môi trường bằng cách giúp các em nhận biết những gì đang hiện hữu xung quanh, từ cây cối, ánh mặt trời, chim chóc, bướm bay, cho đến các hiện tượng tự nhiên như mưa, gió, hay sự thay đổi nhiệt độ. Từ đó, dần dần trẻ sẽ hiểu được vai trò của môi trường với cuộc sống con người. Dù việc này không dễ dàng nhưng với sự tận tâm của gia đình và nhà trường, các em sẽ có cơ hội khám phá, tìm hiểu sâu sắc hơn về thế giới tự nhiên đầy kỳ thú.

Hiện nay, cả nước có trên 15.000 trường mẫu giáo với gần 5,3 triệu trẻ em và  trên  15.000  giáo  viên. Một lực lượng khá đông đảo sẽ được trang bị những kiến thức, kỹ năng về môi trường và BVMT nếu đưa giáo dục BVMT vào trường mầm non.

Bên cạnh môi trường giáo dục mầm non thì bậc tiểu học cũng là nền tảng quan trọng để hình thành những công dân tốt. Giáo dục BVMT không chỉ giúp trẻ hiểu tầm quan trọng của môi trường mà còn xây dựng thói quen và hành vi thân thiện với thiên nhiên. Nếu trẻ không phát triển tình yêu thiên nhiên và thói quen sống ngăn nắp, vệ sinh ở giai đoạn này sẽ rất khó bù đắp ở các cấp học sau. Vì vậy, giáo dục BVMT ở tiểu học có vai trò quyết định trong việc hình thành những phẩm chất đó.

Sang cấp Trung học cơ sở, giáo dục môi trường cần được coi là một nội dung chính thống, có hệ thống, chất lượng và hiệu quả. Ở cấp học này đã có nhiều hoạt động BVMT sôi nổi, rất cần được phát huy để trở thành phong trào. Ở nhà các em có thể giúp bố mẹ phân loại rác thải, đổ rác đúng nơi quy định, khi ra ngoài xã hội các em tham gia tuyên truyền BVMT, thực hiện nhặt rác nơi công cộng, trên bãi biển,…

Ngoài ra, giáo dục BVMT ở bậc đại học và sau đại học có thể triển khai theo ba phương thức chính. Trước tiên là đưa vào chương trình giảng dạy như một môn học hoặc chuyên đề mới. Phương thức này dễ thực hiện nhưng gặp khó khăn vì khung chương trình hiện tại không còn đủ thời lượng. Thứ hai, lồng ghép nội dung BVMT vào các môn học khác. Cách này phù hợp với tính chất liên ngành, không cần thay đổi cấu trúc chương trình, nhưng đòi hỏi phải đào tạo và bồi dưỡng giáo viên để đáp ứng mục tiêu và phương pháp mới. Cuối cùng, giáo dục BVMT thông qua hoạt động ngoại khóa, giúp giải quyết vấn đề về quỹ thời gian học tập và mang lại trải nghiệm sinh động, gần gũi với thực tế. Dù có ưu điểm lớn trong việc rèn luyện kỹ năng và thái độ nhưng phương thức này lại thiếu tính hệ thống và dễ bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài.

Được biết, hai trường học được nhận giải trong Lễ kỷ niệm Năm Môi trường ASEAN (AEY) 2015 với chủ đề "Trao quyền cho thanh niên vì một Cộng đồng ASEAN Xanh" đã được tổ chức trong hai ngày 29-30/7/2015 tại thủ đô Nay Pyi Taw, Myanma là trường Trung học Cơ sở Hà Nội - Amsterdam và trường Trung học Phổ thông Chuyên Ngoại ngữ, Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội.

Ngoài ra, việc thực hiện mô hình ASEAN tại Việt Nam cũng là một giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và BVMT trong khu vực. Mô hình này tập trung vào việc xây dựng các trường học sinh thái, nâng cao ý thức BVMT từ cấp tiểu học đến đại học, đồng thời khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong việc lan tỏa các giá trị xanh. Các giải pháp cụ thể bao gồm việc lồng ghép giáo dục môi trường vào chương trình học, tổ chức các hoạt động ngoại khóa sinh thái và sử dụng công nghệ xanh trong quản lý tài nguyên. Điều này không chỉ giúp cải thiện chất lượng giáo dục mà còn góp phần BVMT và hướng đến một tương lai bền vững cho Việt Nam.

Chiều ngày 14/10/2024, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) đã tổ chức phát động Giải thưởng Trường học sinh thái ASEAN Việt Nam. Giải thưởng này nhằm tôn vinh và khen thưởng những cơ sở giáo dục, trường học có thành tích xuất sắc trong các hoạt động giáo dục và thúc đẩy BVMT. Đồng thời, giải thưởng cũng khuyến khích những giải pháp sáng tạo trong việc lan tỏa và nhân rộng các mô hình trường học sinh thái, góp phần xây dựng nền giáo dục gắn liền với BVMT tại Việt Nam.

Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành cùng các đại biểu bấm nút phát động Giải thưởng Trường học sinh thái

ASEAN Việt Nam 2024

Mô hình sinh thái trên thế giới

Để thúc đẩy sự phát triển bền vững trong giáo dục môi trường, Việt Nam có thể học hỏi từ các mô hình sinh thái nổi tiếng trên thế giới, những nơi đã và đang đạt được nhiều thành tựu đáng kể.

Trên thế giới việc xây dựng trường học sinh thái (THST) theo quan điểm kiến trúc sinh thái thực chất đã xuất hiện từ rất sớm. Theo quan điểm sinh thái nhân văn, từ năm 1994 tổ chức UNEP đã xây dựng phong trào THST (Eco-school) bắt đầu ở 4 nước Châu Âu (Đan Mạch, Đức, Hy Lạp và Anh Quốc). Các trường học tham gia sẽ xây dựng kế hoạch xanh, giảm thiểu sử dụng năng lượng, nước, và tăng cường tái chế. Năm 2007, chương trình THST đã thực hiện ở 22.000 trường học, với sự tham gia của hơn 5 triệu học sinh, sinh viên, hơn 400.000 giáo viên và hơn 4.000 nhà chức trách tại địa phương.

Giải thưởng 'Cờ xanh' vinh danh các trường đã nỗ lực thúc đẩy hệ sinh thái môi trường

Chương trình “Thành phố Sinh thái” (Eco-Town Program) tại Nhật Bản được khởi xướng vào năm 1997 và đã được triển khai trên 26 thành phố khắp cả nước. Mục tiêu của chương trình này là tạo ra sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và BVMT thông qua việc kết hợp các quá trình cộng sinh giữa đô thị và công nghiệp. Các thành phố sinh thái không chỉ giảm thiểu lượng rác thải và khí thải carbon mà còn khuyến khích việc tái chế, tái sử dụng tài nguyên, đồng thời tận dụng các công nghệ tiên tiến nhằm tối ưu hóa hiệu quả năng lượng. Đây là một mô hình độc đáo, vừa thúc đẩy phát triển bền vững, vừa mang lại lợi ích thiết thực về kinh tế và môi trường cho cộng đồng.

Mô hình thành phố sinh thái (Eco-Town) của Kawasaki - Nhật Bản. Nguồn: Thành phố Kawasaki

Một trong những mô hình sinh thái tiêu biểu khác trên thế giới đó là làng sinh thái Findhorn tại Scotland - nơi được biết đến với lối sống bền vững và những ngôi nhà được xây dựng từ vật liệu tái chế, thân thiện với môi trường. Hơn nữa, cộng đồng này còn đặc biệt chú trọng việc sử dụng năng lượng sạch như điện mặt trời và gió cũng như thực hiện các biện pháp nhằm giảm thiểu lượng chất thải và tác động tiêu cực đến thiên nhiên. Findhorn không chỉ là nơi sống, mà còn là mô hình mẫu về cách con người có thể hài hòa với môi trường, giúp truyền cảm hứng cho nhiều cộng đồng khác trên toàn cầu về sự bền vững và BVMT. Việc áp dụng các mô hình sinh thái như Findhorn có thể là bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng ý thức sống xanh cho thế hệ trẻ.

Cộng đồng sinh thái mới nhất tại Findhorn Ecovillage, Scotland mang tên East Whins sử dụng năng lượng mặt trời thụ động trong mỗi không gian

Như vậy, mô hình nông trại thẳng đứng (Vertical Farming) đang ngày càng trở nên phổ biến tại các thành phố lớn như New York, Singapore và Tokyo. Vertical farming được đưa ra bởi Dickson Despommier – giáo sư tại trường Đại học Columbia lần đầu tiên vào năm 1999 và lúc đó ông cùng với các học trò của mình đã thiết kế ra được mô hình nông nghiệp mà có thể cung cấp thực phẩm cho 50.000 người. Đây là một giải pháp hiệu quả nhằm tối ưu hóa không gian và tài nguyên, giúp cung cấp thực phẩm sạch ngay tại nơi tiêu thụ. Với việc sử dụng công nghệ hiện đại, các nông trại thẳng đứng không chỉ giảm thiểu lượng nước và hóa chất sử dụng mà còn góp phần giảm phát thải carbon từ việc vận chuyển thực phẩm. Mô hình này không chỉ đáp ứng nhu cầu thực phẩm của đô thị đông đúc mà còn tạo ra một môi trường sinh thái bền vững, khuyến khích lối sống xanh và BVMT.

Công tác giáo dục BVMT trong các trường học tại Việt Nam là một yếu tố quan trọng để hình thành ý thức và hành vi BVMT cho thế hệ trẻ. Chỉ khi giáo dục môi trường được lồng ghép vào chương trình học hoặc có các chương trình ngoại khóa, chúng ta mới có thể xây dựng một cộng đồng có trách nhiệm với thiên nhiên và phát triển bền vững.

Đây là một quá trình đòi hỏi sự kiên trì và phương pháp lồng ghép trong giáo dục, thời gian dài và đặc biệt là sự kết hợp hài hòa và tổng hợp các giải pháp. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, không có một giải pháp đơn lẻ nào có thể phát huy hiệu quả trong vấn đề này.

Chính phủ Việt Nam đã nhận định, không có giải pháp nào kinh tế và hiệu quả bằng việc đầu tư vào con người thông qua công tác giáo dục môi trường. Bảo vệ môi trường nên bắt đầu bằng việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, nhất là cho học sinh, sinh viên. Do đó, ngay từ năm 2001, Thủ tướng Chính phủ  đã ra Quyết định số 1363/QĐ-TTg phê duyệt Đï án “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân”. Trong đó, chỉ rõ nội dung giáo dục bảo vệ môi trường phải bảo đảm tính giáo dục toàn diện. Bên cạnh đó, các định hướng chính sách về giáo dục cũng được đưa vào Nghị  quyết  số  41-NQ/TW  của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 2/12/2003 của Thủ tướng về Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày  17/8/2004  của  Thủ  tướng  ban hành “Định hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam”… Luật Bảo vệ môi trường đã nêu rõ: Công dân Việt Nam được giáo dục toàn diện về môi trường nhằm nâng cao  hiểu  biết  và  ý  thức  bảo  vệ  môi trường; giáo dục về môi trường là một nội dung của chương trình chính khoá của các cấp học phổ thông; nhà nước ưu  tiên đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường, khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân tham gia đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường.

Thu Hường, Thùy Linh, Việt Anh