news

Phát triển hệ thống giám sát khí hậu, cảnh báo sớm thiên tai

Thứ sáu, 4/11/2022, 10:55 (GMT+7)
logo Những năm qua, mạng lưới trạm khí tượng thủy văn(KTTV) được phát triển đã giúp cho công tác dự báo, cảnh báo có chuyển biến rõ dệt về cả lượng và chất cũng như đa dạng hóa hình thức thông tin hướng tới từng đối tượng sử dụng. Mạng lưới trạm KTTV quốc gia gồm các trạm KTTV và trạm giám sát biến đổi khí hậu (BĐKH), thực hiện quan trắc KTTV, giám sát BĐKH có hệ thống, liên tục, ổn định, lâu dài.

Với việc hoàn thiện hệ thống thể chế, ban hành và thực thi Luật PCTT 2013, Luật KTTV 2015 cũng như các văn bản dưới luật; đồng thời thực hiện các chiến lược, chương trình và dự án đầu tư, hệ thống giám sát BĐKH và nước biển dâng được xây dựng và vận hành hiệu quả. Các công nghệ dự báo KTTV nước ta cũng được phát triển, dần tiếp cận trình độ các nước tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là trong dự báo, cảnh báo bão, mưa lớn, rét đậm, rét hại, lũ lụt và nắng nóng.

Phát triển hệ thống giám sát khí hậu, cảnh báo sớm thiên tai

Trạm KTTV cảnh báo lũ

Theo báo cáo của Tổng cục KTTV, hiện nay, mạng lưới quan trắc và truyền tin của Việt Nam đã được quan tâm và đầu tư nhiều trang thiết bị, cụ thể: Có 186 trạm khí tượng bề mặt; 2.500 điểm đo mưa tự động; 14 trạm đo bức xạ; 232 trạm thủy văn; 26 trạm KTTV biển; 10 radar thời tiết; 179 trạm quan trắc môi trường không khí và nước và 18 trạm định vị sét.

Tuy nhiên, ngoài đo mưa, các trạm quan trắc KTTV có tỷ lệ tự động hóa không cao, công tác đo đạc quan trắc chủ yếu là thủ công, mức độ tự động hoá mới được khoảng từ 30÷40%, mạng lưới quan trắc xâm nhập mặn hiện nay còn thưa thớt, chưa đáp ứng được yêu cầu, dự báo xâm nhập mặn chưa có quy chế và định mức áp dụng riêng.

Dưới tác động của BĐKH toàn cầu đã ảnh hưởng đến thời tiết, khí hậu, thuỷ văn ở Việt Nam gây ra những diễn biến bất thường, một số quy luật KTTV có sự thay đổi, trước yêu cầu ngày càng cao của xã hội, đòi hỏi các bản tin dự báo KTTV chi tiết hơn, độ chính xác cao hơn. Nhiệm vụ theo dõi, dự báo, cảnh báo kịp thời về tình hình KTTV, nhất là các hiện tượng KTTV nguy hiểm, phát hiện và đưa tin cảnh báo, dự báo kịp thời các hiện tượng KTTV nguy hiểm trên các phương tiện thông tin đại chúng đã được thực hiện rộng khắp trong toàn Ngành. Chất lượng các bản tin cảnh báo, dự báo thời tiết, thủy văn ngày một nâng cao, nhiều tiến bộ khoa học, trang thiết bị, công nghệ mới đã được triển khai ứng dụng có hiệu quả vào công tác dự báo, cảnh báo KTTV; đã tăng cường các bản tin dự báo thời tiết biển, đặc biệt là thời tiết biển khu vực quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước, dự báo điểm chi tiết cho khoảng 600 điểm trên toàn quốc.

Độ chính xác trong bản tin dự báo bão của Việt Nam đã dần tiệm cận với trình độ dự báo bão của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, góp phần giảm thiệt hại so với trước đây. Đã thực hiện cảnh báo bão sớm trước 5 ngày, dự báo, cảnh báo áp thấp nhiệt đới trước 3 ngày. Dự báo, cảnh báo mưa lớn trước 2-3 ngày với độ tin cậy khoảng 75%; cảnh báo rét đậm, rét hại trước 2-3 ngày với độ tin cậy 80÷90%; cảnh báo lũ trên các sông khu vực miền Trung, Tây Nguyên trước 1-2 ngày, các sông khu vực Bắc Bộ, Nam Bộ trước 3-5 ngày thường đạt 70÷80%; cảnh báo các đợt nắng nóng diện rộng trước từ 2-3 ngày có độ tin cậy 70%. Số lượng và tần suất phát tin cảnh báo, dự báo bão, áp thấp nhiệt đới đã được nâng lên từ 4-8 bản tin/ngày.

Hệ thống báo tin động đất và cảnh báo sóng thần đã bắt đầu hình thành. Ở Trung ương, Viện Vật lý địa cầu phụ trách việc phát bản tin cảnh báo sóng thần đến các cơ quan liên quan đồng thời kích hoạt hệ thống các trạm trực canh để cảnh báo cho người dân khi có khả năng xảy ra sóng thần. Ở địa phương, Ban chỉ huy PCTT và Tìm kiếm cứu nạn các tỉnh, thành phố từ Hà Tĩnh đến Bà Rịa - Vũng Tàu kích hoạt hệ thống trạm trực canh tại địa phương để hướng dẫn cho người dân ứng phó với sóng thần, áp thấp nhiệt đới, bão và các loại hình thiên tai khác phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương. Ngoài ra, theo mục tiêu trong Đề án xây dựng hệ thống báo động trực canh cảnh báo sóng thần và Quy hoạch chi tiết hệ thống các trạm trực canh cảnh báo sóng thần, sẽ có 532 trạm dọc biển, cửa sông các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Bà Rịa - Vũng Tàu được xây dựng với tổng kinh phí 293,34 tỷ đồng. Hệ thống cảnh báo tai biến địa chất và thảm họa môi trường tự nhiên Việt Nam cũng đã được xây dựng và cập nhật theo thời gian thực.

Phát triển hệ thống giám sát khí hậu, cảnh báo sớm thiên tai

Phát triểt công nghệ trong hệ thống dự báo

Báo cáo mới đây của Bộ TN&MT cho thấy, căn cứ vào các kịch bản BĐKH và nước biển dâng, các bản đồ biến đổi các yếu tố khí hậu, ngập lụt, bản đồ rủi ro thiên tai đã được xây dựng và gắn với hệ thống thông tin địa lý, thông tin viễn thám. Bộ bản đồ phân vùng cảnh báo các loại hình thiên tai như lũ quét, sạt lở đất đá, ngập lụt,... cũng đã được thành lập. Cụ thể, năm 2019, đã thành lập bản đồ hiện trạng trượt lở đất đá tỷ lệ 1:50.000 cho 22 tỉnh miền núi phía Bắc; hoàn thành công tác lập bản đồ phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá tỷ lệ 1:50.000 cho 15 tỉnh. Tại một số địa phương đã triển khai công tác điều tra và lập bản đồ phân vùng cảnh báo nguy cơ sạt lở đến cấp xã (50 xã thuộc 6 tỉnh gồm Điện Biên, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Hòa Bình và Thanh Hóa,...). Các bản tin cảnh báo trượt lở đất đá, các biện pháp phòng ngừa và giảm thiểu thiệt hại do trượt lở đất đá gây ra trong mùa mưa, bão cũng đã được tiến hành. Các bộ bản đồ đã được chuyển giao cho các đơn vị sử dụng phục vụ công tác PCTT, tìm kiếm cứu nạn và hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên từ cấp trung ương đến địa phương.

Theo GS.TS.Trần Hồng Thái, Tổng cục trưởng Tổng cục KTTV, ​Việt Nam là quốc gia thường xuyên chịu tác động của thiên tai, đặc biệt là bão, lũ và hạn hán có tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới nhiều vùng, nhiều lĩnh vực. Dưới tác động của BĐKH, các thiên tai ngày càng khó lường, khó dự báo do tính thất thường, cực đoan. Thiên tai đã ảnh hưởng lớn đến các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam. Do đó, yêu cầu đặt ra là cần tăng cường hệ thống cảnh báo sớm cấp quốc gia; hệ thống quan trắc ngành KTTV nói riêng và ngành TN&MT nói chung phải được phát triển. Đó là cơ sở dữ liệu phải được xây dựng tập trung để phục vụ nhân dân tốt hơn. Công nghệ dự báo, sản phẩm dự báo phải đến với cộng đồng, bằng mọi cách để đến được người dân làm sao cho kịp thời, hiệu quả.

PHƯƠNG ĐÔNG