Mọi hoạt động của con người đều chịu tác động bởi những biến động của tự nhiên và các hiện tượng thời tiết. Nhu cầu về thông tin KTTV ngày càng nhiều hơn, với các đối tượng đa dạng hơn, đòi hỏi các dịch vụ KTTV phải phát triển tương xứng. Vì vậy, sự cần thiết phải có những cơ chế pháp lý quản lý các hoạt động KTTV, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội.
Mật độ trạm quan trắc còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu
Trong bối cảnh BĐKH đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, thì những vấn đề của thời tiết, mưa bão, lũ lụt, nắng nóng, hạn hán,... thiên tai ngày càng xuất hiện nhiều, ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống của con người và tác động đến hệ sinh thái trên toàn thế giới. Đặc biệt, đối với Việt Nam, các loại thiên tai KTTV hàng ngày, hàng giờ tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống người dân nước ta.
Triển khai nghiệp vụ quan trắc
Luật KTTV tạo ra khuôn khổ pháp lý, là bước thay đổi quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về KTTV; góp phần hoàn thiện thêm một bước hệ thống pháp luật của ngành TN&MT, không chỉ tạo ra hành lang pháp lý để thúc đẩy sự phát triển toàn diện ngành KTTV Việt Nam mà còn tạo điều kiện cho sự tham gia của tổ chức, cá nhân vào hoạt động KTTV, đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của công tác phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với BĐKH, bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản, góp phần phát triển bền vững KT-XH, QP-AN quốc gia.
Theo Luật KTTV, quy hoạch mạng lưới trạm KTTV quốc gia là một trong những nội dung quan trọng, được quy định chi tiết để bảo đảm việc quan trắc trên mạng lưới phản ánh được diễn biến theo không gian, thời gian của yếu tố KTTV cần quan trắc, đáp ứng mục đích khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu KTTV nhằm bảo đảm một trong những nguyên tắc cơ bản đối với hoạt động KTTV là “Quan trắc KTTV phải bảo đảm chính xác, liên tục, thống nhất, đồng bộ, kết quả quan trắc liên kết được trong phạm vi quốc gia và quốc tế”. Nhận thức được vai trò quan trọng của công tác quy hoạch, đặc biệt là quy hoạch các mạng lưới trạm quan trắc TN&MT, trong đó có mạng lưới trạm quan trắc KTTV, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm, chỉ đạo lập và thực hiện quy hoạch tổng thể mạng lưới trạm quan trắc TN&MT quốc gia từ năm 2007 (Quyết định số 16/2007/QĐ- phê duyệt quy hoạch tổng thể mạng lưới quan trắc TN&MT quốc gia đến năm 2020) và tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện một bước cơ bản tại Quyết định số 90/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch mạng lưới quan trắc TN&MT quốc gia giai đoạn 2016-2025, tầm nhìn đến năm 2030. Trong các bản Quy hoạch này, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn đặt ra nguyên tắc quan trọng là yêu cầu phải bảo đảm sự lồng ghép tối đa giữa các lĩnh vực và mạng lưới trạm KTTV được lấy làm nòng cốt trong tổng thể mạng lưới trạm quan trắc TN&MT quốc gia.
Thời gian qua, việc tổ chức thực hiện các Quy hoạch ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, việc phân bố số lượng trạm quan trắc môi trường ở các vùng kinh tế trọng điểm, vùng có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao như khu đô thị ven biển, các khu du lịch, danh lam thắng cảnh còn nhiều hạn chế do mật độ trạm quan trắc còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn; một số vị trí quy hoạch đặt trạm chưa được khảo sát kỹ các điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng và cơ sở hạ tầng (cả khu vực biển Đông chỉ có khoảng 10 trạm khí tượng trên đảo), nhất những vùng thường xuyên xảy ra thiên tai. Ngoài ra, để bảo đảm tính bền vững và hiệu quả của Quy hoạch cũng như tính đồng bộ, hiện đại của mạng lưới thì việc lựa chọn công nghệ, chủng loại thiết bị quan trắc phù hợp với vị lắp đặt trạm và ứng dụng công nghệ viễn thám vào quan trắc các yếu tố KTTV cũng đã và đang đặt ra thách thức đối với công tác Quy hoạch của Ngành KTTV.
Xây dựng mới 1.328 trạm, điểm tự động và hiện đại
Để khắc phục những hạn chế, tồn tại, Bộ TN&MT vừa hoàn thiện Dự thảo về Quy hoạch mạng lưới trạm KTTV (KTTV) quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Dự thảo) chuẩn bị trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, thẩm định, phê duyệt. Theo Dự thảo, cần rà soát, đánh giá toàn diện, từ đó tiếp tục bổ sung, hoàn thiện Quy hoạch mạng lưới trạm KTTV quốc gia. Trong bối cảnh Luật quy hoạch 2017 được Quốc hội thông qua có nhiều quy định chặt chẽ nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ toàn bộ hoạt động liên quan tới quy hoạch, việc tổ chức xây dựng “Lập quy hoạch mạng lưới trạm KTTV quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050” mang tính cấp bách, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và pháp lý trong thời điểm hiện nay. Mục tiêu cụ thể, giai đoạn 2021 - 2025 sẽ tăng dày mật độ, khoảng cách trạm KTTV tự động ngang bằng với các nước phát triển trong khu vực Đông Nam Á, trong đó mật độ trạm khí tượng bề mặt khoảng 34 km2/trạm, đo mưa khoảng 11 km2/điểm, ra đa thời tiết khoảng 150 km2/trạm, bức xạ khoảng 148 km2/trạm, định vị sét khoảng 125 km2/trạm, khoảng cách trạm hải văn khoảng 112 km/trạm, ra đa biển khoảng 250 km/trạm; bảo đảm các yêu cầu phục vụ dự báo điểm, đầu vào cho mô hình dự báo số.

Hiện đại hóa mạng lưới trạm KTTV
Ưu tiên phát triển mới các trạm quan trắc KTTV tại các vùng, khu vực thường xuyên chịu tác động của các loại hình thiên tai KTTV, khu vực ven biển và hải đảo, vùng trống số liệu và những yếu tố quan trắc có nhu cầu cấp bách phục vụ dự báo, cảnh báo, phòng chống thiên tai, phát triển kinh tế - xã hội và ứng phó với BĐKH. Duy trì, nâng cấp và hiện đại hóa các trạm KTTV hiện có; xây dựng mới và đưa vào vận hành một số trạm KTTV, bao gồm: Nâng cấp và hiện đại hóa 134 trạm (bao gồm các trạm được lồng ghép: giám sát BĐKH; môi trường không khí; môi trường nước sông, hồ, biển) trong đó: 50 trạm khí tượng bề mặt, 75 trạm thủy văn và 09 trạm hải văn cho các vùng: Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và duyên hải Miền Trung, khu vực ven biển và hải đảo thuộc khu vực Đông Bắc, Trung Trung Bộ và Nam Bộ.
Xây dựng mới 1.328 trạm/điểm KTTV theo hướng tự động và hiện đại (bao gồm các trạm được lồng ghép: giám sát BĐKH; môi trường không khí; môi trường nước sông, hồ, biển), trong đó: 77 trạm khí tượng bề mặt, 11 trạm thủy văn, 3 trạm hải văn, 4 trạm khí tượng trên cao, 5 trạm ra đa thời tiết, 3 trạm định vị sét, 1 trạm bức xạ, 09 trạm ra đa biển, 28 trạm đo mặn và 1.187 điểm đo mưa cho các vùng: Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, ĐBSCL, ven biển và hải đảo.
PHƯƠNG ĐÔNG