Biến đổi khí hậu đang gia tăng mức độ và tần suất hạn hán tại các vùng sản xuất lúa ở Việt Nam, khiến nông dân gặp khó khăn trong việc duy trì năng suất lúa ổn định. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu và khai thác các nguồn gen lúa địa phương có khả năng chịu hạn là một trong những giải pháp quan trọng. Nhằm đánh giá đa dạng di truyền và xác định các giống lúa chịu hạn, TS. Phạm Hùng Cương - Phó Giám đốc Trung tâm Tài nguyên thực vật, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam cùng nhóm nghiên cứu đã thực hiện một nghiên cứu sâu rộng về 50 giống lúa địa phương lưu giữ tại Ngân hàng gen thực vật quốc gia. Bài phỏng vấn dưới đây với TS. Phạm Hùng Cương sẽ giúp độc giả hiểu rõ hơn về kết quả nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn của nó trong chọn tạo giống lúa chịu hạn.
TS. Phạm Hùng Cương trả lời phỏng vấn
PV:Xin chào TS. Phạm Hùng Cương, cảm ơn ông đã tham gia phỏng vấn. Ông có thể chia sẻ lý do tại sao nghiên cứu này lại quan trọng đối với ngành nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay?
TS. Phạm Hùng Cương:
Cảm ơn bạn đã mời tôi tham gia phỏng vấn. Như chúng ta đã thấy, biến đổi khí hậu đang ngày càng làm tăng tình trạng hạn hán ở nhiều khu vực sản xuất lúa của Việt Nam. Lúa là cây trồng chủ lực, nhưng lại rất nhạy cảm với hạn hán. Do đó, việc nghiên cứu các giống lúa địa phương có khả năng chịu hạn là cực kỳ quan trọng. Nghiên cứu này nhằm đánh giá mức độ đa dạng di truyền của các giống lúa địa phương, xác định các giống có khả năng chịu hạn tốt, từ đó cung cấp cơ sở khoa học vững chắc cho việc chọn giống và lai tạo giống lúa có khả năng chịu hạn tốt trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
PV:Trong nghiên cứu này, ông đã sử dụng 10 chỉ thị SSR liên kết với các QTL chịu hạn như qDTY1.1, qDTY3.1 và qDTY12.1. Ông có thể giải thích thêm về phương pháp này và lý do tại sao nó lại quan trọng trong việc đánh giá tính chịu hạn của lúa?
TS. Phạm Hùng Cương:
Chỉ thị SSR (Simple Sequence Repeat) là một công cụ phân tích di truyền rất hiệu quả, đặc biệt trong việc đánh giá đa dạng di truyền của các giống lúa. Những chỉ thị SSR này được chọn lựa vì chúng liên kết chặt chẽ với các QTL chịu hạn, như qDTY1.1, qDTY3.1 và qDTY12.1. Các QTL này có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng chịu hạn của lúa. Việc sử dụng chỉ thị SSR giúp chúng tôi xác định các allele (biến thể gen) liên quan đến khả năng chịu hạn, từ đó phân loại chính xác các giống lúa chịu hạn và mẫn cảm. Đây là phương pháp hiện đại, có độ chính xác cao và giúp giảm thời gian cũng như chi phí so với phương pháp chọn giống truyền thống.
Tiềm năng phát triển giống lúa chịu hạn dựa trên những giống lúa địa phương, đặc biệt là những giống có độ dị hợp di truyền cao, như A17 (Plẩu mù đề), A24 (Ble tớ) hay A10 (Khẩu tan đón dạng 1).
PV:Trong nghiên cứu này, ông và nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra 40 alen tại 10 locus, với hệ số đa hình PIC trung bình đạt 0,60. Ông có thể chia sẻ thêm về kết quả này và ý nghĩa của nó trong việc chọn giống lúa chịu hạn?
TS. Phạm Hùng Cương:
Đúng vậy, chúng tôi đã phát hiện 40 alen tại 10 locus SSR, với số alen dao động từ 2 đến 5, trung bình là 4,0 alen/locus. Hệ số đa hình PIC dao động từ 0,24 đến 0,77, với giá trị trung bình đạt 0,60, cho thấy mức độ đa dạng di truyền khá cao trong tập đoàn giống lúa này. Điều này rất quan trọng, vì mức độ đa dạng di truyền cao sẽ tạo ra cơ hội lớn cho việc chọn tạo giống lúa chịu hạn, đồng thời giúp khai thác tối đa các gen có lợi từ các nguồn gen khác nhau. Kết quả này khẳng định tiềm năng phát triển giống lúa chịu hạn dựa trên những giống lúa địa phương, đặc biệt là những giống có độ dị hợp di truyền cao, như A17 (Plẩu mù đề), A24 (Ble tớ) hay A10 (Khẩu tan đón dạng 1).
PV:Theo ông, nghiên cứu này có thể áp dụng vào thực tiễn như thế nào để giúp nông dân Việt Nam đối phó với vấn đề hạn hán trong sản xuất lúa?
TS. Phạm Hùng Cương:
Kết quả nghiên cứu sẽ giúp nông dân có thể lựa chọn những giống lúa chịu hạn tốt hơn, phù hợp với điều kiện khí hậu khắc nghiệt của từng vùng bởi đây là những giống lúa bản địa đã được thuần hóa và có khả năng thích nghi cao. Việc sử dụng các giống lúa chịu hạn đã được xác định rõ ràng qua các chỉ thị SSR sẽ giúp giảm thiểu thiệt hại trong những mùa hạn hán. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng cung cấp cơ sở khoa học cho các chương trình lai tạo giống, giúp phát triển giống lúa mới có khả năng chống chịu tốt hơn. Các giống này không chỉ giúp cải thiện năng suất mà còn giữ vững an ninh lương thực quốc gia trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
PV:Nghiên cứu của ông cũng chỉ ra rằng một số allele đặc trưng của Việt Nam không xuất hiện trong các giống lúa của Ấn Độ, Trung Quốc hay Nepal. Ông có thể chia sẻ về ý nghĩa của phát hiện này đối với công tác bảo tồn và phát triển giống lúa?
TS. Phạm Hùng Cương:
Đúng, việc phát hiện các allele đặc trưng của Việt Nam, đặc biệt tại các chỉ thị như RM1261 và RM2634, cho thấy nguồn gen lúa địa phương Việt Nam rất độc đáo và có giá trị lớn trong công tác chọn tạo giống. Các allele này không xuất hiện trong các giống lúa của Ấn Độ, Trung Quốc hay Nepal, điều này chứng tỏ lúa Việt Nam có sự khác biệt rõ rệt và có tiềm năng rất lớn trong việc tạo ra các giống lúa chịu hạn tốt. Việc bảo tồn và sử dụng nguồn gen này sẽ giúp Việt Nam phát triển các giống lúa có tính chịu hạn vượt trội, đồng thời bảo vệ và phát huy giá trị của giống lúa địa phương.
PV:Cuối cùng, ông có lời khuyên nào cho các nhà nghiên cứu và nông dân trong việc ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn?
TS. Phạm Hùng Cương:
Lời khuyên của tôi cho các nhà nghiên cứu là tiếp tục khai thác và bảo tồn nguồn gen lúa địa phương, đặc biệt là các gen liên quan đến khả năng chống chịu các yếu tố bất thuận sinh học và phi sinh học, vì nước ta đang chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu, đặc biệt là hạn, mặn. Đồng thời, các nghiên cứu sâu hơn về tính chịu hạn của các giống lúa sẽ giúp mở rộng cơ sở dữ liệu cho việc chọn tạo giống. Đối với nông dân, tôi khuyến khích họ tham gia các chương trình thử nghiệm giống lúa mới, để có thể chọn lựa giống phù hợp với điều kiện sản xuất tại địa phương. Việc ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sẽ giúp nông dân vượt qua khó khăn do biến đổi khí hậu và duy trì sản xuất lúa bền vững.
Việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sẽ giúp nông dân có thêm lựa chọn giống lúa phù hợp, đảm bảo năng suất trong các mùa hạn hán
Nghiên cứu đánh giá đa dạng di truyền của 50 giống lúa địa phương lưu giữ tại Ngân hàng gen thực vật quốc gia không chỉ mở ra cơ hội lớn trong việc phát triển các giống lúa chịu hạn, mà còn đóng góp quan trọng vào việc bảo tồn nguồn gen quý giá của Việt Nam. Với những phát hiện về các allele đặc trưng chỉ có ở các giống lúa địa phương, nghiên cứu này không chỉ làm sáng tỏ tiềm năng của nguồn gen lúa Việt Nam mà còn cung cấp cơ sở khoa học vững chắc cho các chương trình lai tạo giống lúa chịu hạn trong tương lai.
Kết quả của nghiên cứu đã chứng minh rằng, nhờ vào sự đa dạng di truyền cao và sự phân tách rõ rệt giữa các giống lúa chịu hạn và mẫn cảm, các nhà khoa học có thể lựa chọn chính xác những giống lúa có khả năng chống chịu cao, từ đó phát triển giống lúa bền vững hơn trong điều kiện biến đổi khí hậu. Đây là bước tiến quan trọng, không chỉ vì lợi ích nông nghiệp hiện tại mà còn vì tương lai của ngành nông nghiệp Việt Nam trong việc đối phó với những thách thức do biến đổi khí hậu.
Việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sẽ giúp nông dân có thêm lựa chọn giống lúa phù hợp, đảm bảo năng suất trong các mùa hạn hán. Đồng thời, nghiên cứu này cũng khẳng định vai trò của khoa học trong việc cải tiến giống cây trồng, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển nông nghiệp bền vững tại Việt Nam.
PV: Cảm ơn TS. Phạm Hùng Cương đã chia sẻ những thông tin rất quý báu trong cuộc phỏng vấn này. Chúc ông và nhóm nghiên cứu sẽ tiếp tục đạt được nhiều thành công trong các dự án nghiên cứu sắp tới!
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và khủng hoảng tài nguyên nước ngày càng gay gắt, việc duy trì hình thức canh tác lúa ngập nước truyền thống đang đặt ra nhiều hệ lụy: lãng phí hàng tỷ mét khối nước tưới mỗi năm và phát thải hàng chục triệu tấn khí mê-tan (CH₄) - loại khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh gấp 25 lần CO₂. Từ yêu cầu cấp bách ấy, các nhà khoa học Việt Nam đã tiên phong nghiên cứu và triển khai kỹ thuật tưới khô ướt xen kẽ (AWD) - mô hình canh tác giúp cây lúa “biết thở”, tiết kiệm đến 40% lượng nước tưới, giảm gần một nửa lượng phát thải khí mê-tan mà vẫn đảm bảo năng suất cao. Đây được xem là cuộc cách mạng xanh trong sản xuất lúa gạo, hiện thực hóa cam kết của Việt Nam về phát triển nông nghiệp bền vững và phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Tóm tắt Bài báo tập trung phân tích cơ sở pháp lý và yêu cầu hoàn thiện thể chế trong triển khai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất dạng điện tử theo quy định mới của Luật Đất đai 2024, Nghị định số 101/2024/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn liên quan. Tác giả tiến hành tổng hợp, phân tích các điểm mới của pháp luật về giấy chứng nhận điện tử, đánh giá thực trạng triển khai tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia, đồng thời so sánh với kinh nghiệm quốc tế về hệ thống đăng ký quyền sở hữu đất đai điện tử. Bài viết chỉ ra, việc cấp giấy chứng nhận điện tử là xu hướng tất yếu, song đòi hỏi nhiều điều kiện về hạ tầng số, pháp lý, quản trị dữ liệu và minh bạch thông tin. Thực tiễn triển khai còn tồn tại các vướng mắc liên quan đến pháp lý, bảo mật, liên thông dữ liệu, năng lực công chức và nhận thức xã hội. Tác giả đề xuất nhóm giải pháp hoàn thiện thể chế, bao gồm đồng bộ hệ thống pháp luật về đất đai, giao dịch điện tử; nâng cao năng lực quản trị dữ liệu đất đai quốc gia; xây dựng chuẩn kết nối liên thông dữ liệu và tăng cường bảo vệ dữ liệu cá nhân, cũng như đa dạng hóa kênh tiếp nhận, xử lý hồ sơ điện tử. Bài viết đóng góp cơ sở khoa học giúp cơ quan quản lý tham khảo trong việc xây dựng và hoàn thiện thể chế phù hợp với yêu cầu thực tiễn và quá trình chuyển đổi số.
Tóm tắt Nghiên cứu “Nhận thức của người khuyết tật trong việc bảo vệ bản thân trước tai nạn hỏa hoạn và rủi ro thiên tai” khảo sát 242 người khuyết tật tại Hà Nội nhằm đánh giá mức độ nhận thức, năng lực tự bảo vệ và các yếu tố ảnh hưởng đến ý định hành động của họ trước các nguy cơ này. Dựa trên mô hình niềm tin sức khỏe (Health belief model - HBM) và lý thuyết Niềm tin vào năng lực bản thân (self-efficacy) , dữ liệu được phân tích bằng SPSS 20.0 cho thống kê mô tả, tương quan Pearson, ANOVA, và hồi quy tuyến tính. Kết quả cho thấy, người khuyết tật có nhận thức cao về nguy cơ (M = 3.61; SD = 0.87), mức độ nghiêm trọng (M = 3.91; SD = 0.89), lợi ích hành động (M = 3.95; SD = 0.84), nhưng niềm tin vào năng lực tự bảo vệ còn thấp (M = 2.80; SD = 0.78). Hỗ trợ xã hội từ gia đình, cộng đồng và bạn bè đóng vai trò tích cực trong việc nâng cao khả năng ứng phó, nhất là với nhóm người khuyết tật ở mức đặc biệt nặng. Nghiên cứu đề xuất tăng cường truyền thông và chương trình can thiệp phù hợp với từng nhóm khuyết tật để hỗ trợ nâng cao niềm tin vào năng lực tự bảo vệ bản thân trước tai nạn hỏa hoạn và rủi ro thiên tai.
Biến đổi khí hậu, suy giảm nguồn nước và sức ép từ thị trường quốc tế đang đặt ngành cà phê Đắk Lắk trước ngưỡng cửa phải thay đổi. Trong bối cảnh ấy, mô hình cà phê nông lâm kết hợp (NLKH) và cơ chế chi trả dịch vụ môi trường (DVMT) được xem là chìa khóa mở ra hướng đi mới cho phát triển bền vững. TS. Trần Hữu Nghị - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp Nhiệt đới (Tropenbos) Việt Nam, đơn vị tiên phong trong các nghiên cứu và thí điểm mô hình cà phê xanh tại Tây Nguyên chia sẻ về hành trình đưa khoa học, chính sách và con người đến gần nhau hơn, để hạt cà phê Việt Nam không chỉ ngon mà còn xanh và có trách nhiệm.
Chiều 21/10, tại Trụ sở Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo chuyên đề hoàn thiện cuốn sách "80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường - Hành trình cùng đất nước". TS. Đào Xuân Hưng - Tổng Biên tập Tạp chí chủ trì Hội thảo.