Việt Nam có lợi thế về phát triển nông nghiệp. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, có nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển. Trong 40 năm đổi mới và nhất là từ khi triển khai và thể chế hóa Nghị quyết Trung ương 7 khóa X và Nghị quyết Trung ương 5 khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (Nghị quyết Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn - sau đây viết tắt là Nghị quyết về Tam nông), Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành và chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện đồng bộ các chương trình, đề án và cơ chế, chính sách, trong đó tập trung và nổi bật là Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Nhờ đó, nông nghiệp đã chuyển biến mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu to lớn, liên tục phát triển với tốc độ tăng trưởng khá cao. Kinh tế nông thôn phát triển theo hướng nâng cao giá trị sản xuất, phát triển công nghiệp, dịch vụ nông thôn; kết cấu hạ tầng nông thôn được tăng cường; đời sống vật chất, tinh thần của cư dân các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện; xóa đói giảm nghèo đạt thành tựu to lớn. Tuy nhiên, phát triển nông nghiệp, nông thôn cũng có những khó khăn, thách thức từ nội tại, từ biến đổi khí hậu và dịch bệnh xuyên biên giới, từ cạnh tranh, xung đột quân sự, thương mại và hội nhập quốc tế. Trước bối cảnh và yêu cầu của thời kỳ mới, nhất là hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và biến động khó lường, đòi hỏi phải tiếp tục phát triển nông nghiệp thực chất, hiệu quả hơn theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh.
Vai trò, vị trí của nông nghiệp, nông thôn
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất hết sức quan trọng, đóng góp gần 12% GDP cả nước. Hơn nữa Việt Nam là một nước có truyền thống nông nghiệp lâu đời, có hai đồng bằng lớn ở hai đầu đất nước, rất thuận lợi cho sản xuất lúa nước, có vùng cao nguyên ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ thuận lợi cho sản xuất cây công nghiệp, có dải Duyên hải miền Trung thuận lợi cho sản xuất thủy sản... Nông nghiệp là kế sinh nhai và giúp ổn định cuộc sống cho phần lớn dân cư nông thôn, là nền tảng cho phát triển KT - XH và ổn định chính trị, tạo tiền đề để công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) từ một nước nông nghiệp.
- Nông nghiệp, nông dân cung cấp lương thực, thực phẩm với nhu cầu số lượng và chất lượng ngày càng tăng cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đồng thời, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và sản phẩm đầu vào cho nhiều ngành công nghiệp, như dệt may, hóa chất... Nguồn cung lương thực, thực phẩm dồi dào giúp duy trì chi phí nhân công thấp, tạo lợi thế cạnh tranh trong giai đoạn đầu CNH. Đây cũng là khu vực cung cấp nguồn nhân lực quan trọng cho CNH đất nước và hội nhập quốc tế.
- Góp phần phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh lương thực quốc gia; Nông nghiệp đã trở thành “trụ đỡ”, là “cứu cánh” cho nền kinh tế trong những năm kinh tế thế giới khủng hoảng, giữ vững tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần ổn định chính trị - xã hội.
- Khu vực nông nghiệp, nông thôn ngày càng phát triển và năng động, với dân số đông và nhu cầu cơ giới hóa, hiện đại hóa ngày càng nhiều sẽ là thị trường tiêu thụ hàng hóa đa dạng về chủng loại, số lượng, chất lượng của các ngành công nghiệp, dịch vụ, như máy móc, thiết bị cơ điện nông nghiệp, máy cấy, máy gặt, đập... Tính toán từ bảng cân đối liên ngành cho thấy, nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản có độ lan tỏa cao nhất và có xu hướng tăng. Điều này có nghĩa là tăng trưởng ngành Nông nghiệp giúp kéo theo tăng trưởng chung mạnh nhất, do sử dụng nhiều lao động và đầu vào từ các ngành khác.
- Nông nghiệp đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn từ xuất khẩu nông, lâm, thủy sản và là lĩnh vực có thặng dư thương mại cao và ổn định, góp phần giảm nhập siêu cho Việt Nam. Nông sản Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới và có mặt trên 196 quốc gia và vùng lãnh thổ, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong hội nhập quốc tế thông qua hình ảnh một Việt Nam ổn định, an ninh lương thực và có trách nhiệm với thế giới..., từ đó tạo thế và lực trên trường quốc tế.
- Bảo vệ môi trường sinh thái, giảm nhẹ thiên tai trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp. Lĩnh vực lâm nghiệp thuộc ngành Nông nghiệp đóng góp đáng kể trong giảm phát thải khí nhà kính và xử lý chất thải chăn nuôi bằng giải pháp công nghệ, vừa góp phần bảo vệ môi trường vừa giúp tạo nguồn năng lượng thay thế.
Đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển nông nghiệp
- Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước luôn xác định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Ngay sau khi giành độc lập, trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam ngày 11/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp” và “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”.
- Ngay từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng xác định “Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu" với nhận thức đúng đắn: "Nền nông nghiệp nhiệt đới nước ta chứa đựng những tiềm năng to lớn và có giá trị cực kỳ quan trọng" (1). Để xây dựng tiền đề cho đẩy mạnh CNH trong những chặng đường tiếp theo, Đại hội VI đã tập trung thực hiện ba chương trình lớn “Lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu".
Ngày 05/04/1988, Bộ Chính trị (khóa VI) đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp (Khoán 10) thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, thực hiện khoán tới hộ xã viên. Khoán 10 là một quyết định lịch sử, là một bước đột phá mạnh mẽ trong nhận thức lý luận của Đảng về vấn đề ruộng đất và nông dân trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với việc xóa bỏ chính sách “ngăn sông, cấm chợ”, cho phép tự do lưu thông hàng hóa, Khoán 10 đã cởi bỏ sự ràng buộc khắt khe của cơ chế cũ làm triệt tiêu động lực sản xuất của người nông dân, giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, tạo cú hích cho nông nghiệp, nông thôn phát triển.
Cùng với chủ trương thực hiện CNH theo hướng hiện đại, gắn CNH với HĐH, trong nhiệm kỳ của Đại hội VII, Đảng ta đã khẳng định: "Phải quan tâm đến CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, thủy sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu" (2), đồng thời nhấn mạnh "Phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới” là các nhiệm vụ quan trọng hàng đầu (3). Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó “Phát triển lực lượng sản xuất, CNH đất nước theo hướng HĐH gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện” là một trong những phương hướng cơ bản trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội VIII và Đại hội IX đã đề ra nhiều chính sách cụ thể để đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn: Thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa; phát triển công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm (4), tạo nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn; xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn, xây dựng vùng sản xuất tập trung lương thực, chăn nuôi có giá trị cao hơn, nhất là giá trị xuất khẩu; tăng hàm lượng khoa học và công nghệ cao như công nghệ sinh học, thông tin, thu hoạch, chế biến, bảo quản, vận chuyển tiêu thụ; khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn (5). Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010, xác định những quan điểm, chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp, đồng thời đặt quá trình CNH, HĐH nông nghiệp trong mối quan hệ với các thành phần kinh tế. Những nhóm giải pháp chính sách được đề cập như: Chính sách đất đai (khuyến khích nông dân thực hiện "dồn điền, đổi thửa" trên cơ sở tự nguyện); chính sách tài chính, tín dụng (miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn điền cho nông dân; điều chỉnh, bổ sung các chính sách thuế...); chính sách về lao động và việc làm; chính sách về thương mại và hội nhập kinh tế (Nhà nước hỗ trợ một phần để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ thương mại; tăng cường thông tin thị trường, xúc tiến thương mại, tổ chức quản lý chất lượng, xây dựng và bảo vệ thương hiệu hàng hóa của Việt Nam)...
Đại hội X tiếp tục bổ sung nhiều định hướng quan trọng, trong đó nhấn mạnh: Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao; tăng nhanh giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp; phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt, chăn nuôi công nghệ cao... gắn với hình thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có thị trường, có giá trị và hiệu quả kinh tế cao (6). Đặc biệt, Đảng ta đã có nhận thức mới: CNH, HĐH phải gắn với việc giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân (7); không thể chỉ giải quyết "vấn đề nông nghiệp" riêng rẽ, thuần túy dưới góc độ kinh tế, tách rời khỏi yếu tố xã hội và dân cư, địa bàn và chủ thể của sản xuất nông nghiệp mà phải giải quyết vấn đề “Tam nông” (Nông nghiệp - Nông dân - Nông thôn) trong một thể thống nhất.
- Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) đã chỉ rõ “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển KT - XH bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm QP - AN, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường, sinh thái của đất nước”. Nghị quyết Trung ương 7 khóa X, Nghị quyết Đại hội Đảng các khóa và Nghị quyết Trung ương 5 khóa XIII (Nghị quyết 19-TW) nêu: "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là ba thành tố có quan hệ mật thiết, gắn bó, không thể tách rời; có vai trò, vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là cơ sở, lực lượng to lớn trong phát triển KT - XH, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm QP - AN, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình CNH, HĐH đất nước. Nguồn lực của đất nước phải tiếp tục ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Bảo đảm phát triển hài hòa giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, miền, địa phương; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp, giữa phát triển nông thôn bền vững với quá trình đô thị hóa theo hướng "Nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh".”
Những kết quả chủ yếu phát triển nông nghiệp sinh thái, hiện đại, bền vững
Sau 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, nông nghiệp tiếp tục phát triển trên cơ sở phát huy các lợi thế, chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, xuất khẩu trên quy mô lớn và ngày càng tăng; hệ thống tổ chức sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp tiếp tục được đổi mới phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Phát triển nông thôn và xây dựng nông thôn đạt được nhiều thành tựu quan trọng, bộ mặt nông thôn nhiều đổi mới; kết cấu hạ tầng được nâng cấp, điều kiện sinh sống được cải thiện; cơ cấu kinh tế, công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn phát triển nhanh. Thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và dân cư nông thôn nâng cao, tỷ lệ nghèo giảm nhanh.
Một là, công tác thể chế hóa, xây dựng luật pháp, cơ chế, chính sách CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn được quan tâm, ngày càng hoàn thiện: Với phương châm hành động “Tư duy mở, hành động nhanh, kết quả thật”; các cơ chế, chính sách, pháp luật được xây dựng, hoàn thiện để nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tạo động lực mới cho phát triển, hỗ trợ cơ cấu lại ngành, thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Đến nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 11 Nghị quyết/Kết luận/Chỉ thị lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp về nông nghiệp; Quốc hội ban hành 20 Luật, 20 Chiến lược phát triển toàn ngành, các tiểu ngành, lĩnh vực, trong đó có Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025; Đề án phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp, gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long; 12 quy hoạch ngành cấp quốc gia lĩnh vực nông nghiệp và môi trường thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Hai là, nông nghiệp tiếp tục khẳng định vị thế quan trọng thông qua việc duy trì tăng trưởng (8), là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực, các cân đối lớn của nền kinh tế và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
- Đã tạo ra sự chuyển biến tích cực, thống nhất từ Trung ương đến địa phương về chuyển đổi tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng hàng nông sản, nổi bật như: (i) Nhiều diện tích lúa kém hiệu quả được chuyển đổi sang cây trồng khác, nuôi trồng thủy sản có hiệu quả hơn; áp dụng thành công quy trình rải vụ (9); tỷ lệ diện tích rừng trồng được kiểm soát chất lượng giống đạt gần 90%, lần đầu tiên bán được 10,3 triệu tín chỉ các-bon rừng; (ii) Thiết lập và cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói đã đạt được nhiều kết quả tích cực góp phần định hướng sản xuất theo nhu cầu của thị trường; (iii) Nhiều mô hình nông nghiệp sinh thái, xanh, hữu cơ có hiệu quả kinh tế được phát triển (10); (iv) Nhân rộng các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả (11); số lượng doanh nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp gia tăng; nhiều trang trại, hộ kinh doanh chuyển đổi thành lập doanh nghiệp; (v) Số lượng sản phẩm đặc sản địa phương (OCOP) từ 3 sao trở lên tăng mạnh tạo điều kiện thuận lợi giúp doanh nghiệp quảng bá, tiêu thụ sản phẩm. Từng bước thay đổi từ cách tiếp cận nông nghiệp nâu sang nông nghiệp xanh, tăng cường áp dụng quy trình sản xuất hữu cơ, giảm thâm dụng tài nguyên và vật tư đầu vào; phát triển chăn nuôi bền vững hướng hữu cơ, an toàn sinh học (12).
- Nông nghiệp chuyển mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, xanh, sinh thái, ứng dụng công nghệ cao, năng suất và chất lượng ngày càng cao, an toàn thực phẩm được bảo đảm. Năng lực cạnh tranh, năng suất nhiều sản phẩm nông nghiệp nâng cao và đang từng bước chiếm lĩnh thị trường thế giới, như: Năng suất lúa gạo cao nhất trong ASEAN (đạt 5,8 tấn/héc-ta), gần gấp đôi so với Thái Lan và gấp 1,5 lần so với Ấn Độ; năng suất cá tra bình quân đạt 210 tấn/héc-ta, cao nhất thế giới... Góp phần quan trọng giảm nghèo, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống người dân nông thôn. Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành duy trì mức khá cao, giai đoạn 10 năm 2011 - 2020 đạt 2,93%/năm, năm 2021 tăng 2,9%, năm 2022 tăng 3,36%, năm 2023 tăng 3,83%, năm 2024 tăng 3,27% và 9 tháng đầu năm 2025 đạt 3,83%.
- Bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và hỗ trợ an ninh lương thực cho các quốc gia khác: Việt Nam liên tục mở rộng sản xuất lúa gạo theo hướng hàng hóa, gia tăng chất lượng, song song với đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi; giai đoạn 2011 - 2025 sản lượng lúa tăng từ 42,3 triệu tấn lên 43,5 triệu tấn; sản lượng lương thực có hạt gần 47,9 triệu tấn, bình quân lương thực đầu người trên 460 kg/năm, đưa Việt Nam vào nhóm 6 nước hàng đầu về chỉ số này.
- Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tăng nhanh, tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy phát triển nông nghiệp hàng hóa, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng, góp phần giảm nhập siêu cho cả nước. Tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2011 - 2020 đạt 341,7 tỷ USD, bình quân đạt 34,17 tỷ USD/năm, tăng 5,38%/năm; năm 2021 đạt 48,7 tỷ USD, năm 2022 đạt 53,66 tỷ USD, năm 2023 đạt 53,01 tỷ USD, năm 2024 đạt 62,5 tỷ USD, 9 tháng đầu năm 2025 đạt 52,31 tỷ USD (đạt 80% mục tiêu năm 2025), dự kiến cả năm 2025 đạt trên 65 tỷ USD. Đã có 12 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu từ 1,0 tỷ USD trở lên (13), trong đó có 7 mặt hàng (rau quả, hạt điều, cà phê, cao su, gạo, tôm, đồ gỗ) đạt kim ngạch xuất khẩu trên 3 tỷ USD (so với năm 2011 chỉ có 7 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu 1,0 tỷ USD trở lên). Nông sản Việt Nam đã có mặt ở gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ; đưa Việt Nam lên đứng thứ 2 Đông Nam Á và đứng thứ 13 thế giới về xuất khẩu nông, lâm, thủy sản. Qua đó, khẳng định nông sản Việt đã bước lên một tầm cao mới và khẳng định tiềm năng, lợi thế để phát triển mạnh mẽ trong quá trình hội nhập quốc tế...
Ba là, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đang chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế, phù hợp nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; giai đoạn 2011 - 2024, trong tổng giá trị tăng thêm ngành nông, lâm, thủy sản; trong tổng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản, tỷ trọng giá trị chăn nuôi và giá trị thủy sản có xu hướng tăng, tỷ trọng giá trị trồng trọt và giá trị lâm nghiệp có xu hướng giảm. Trong nội bộ từng ngành, sản phẩm có lợi thế và thị trường thuận lợi đã tăng nhanh cả về diện tích, năng suất, sản lượng, chất lượng và tỷ trọng đóng góp cho tăng trưởng. Cơ cấu ngành hàng, sản phẩm xuất khẩu thể hiện rõ kết quả tăng tỷ trọng các ngành, sản phẩm có lợi thế và thị trường như: Thủy sản, rau, hoa, quả, cây công nghiệp giá trị cao, đồ gỗ và lâm sản ngoài gỗ.
Bốn là, cơ giới hóa ngày càng được áp dụng rộng rãi, tạo tiền đề quan trọng xây dựng nền nông nghiệp hiện đại; giúp tăng năng suất lao động, nâng cao giá trị hàng nông sản, chuyển đổi cơ cấu lao động ở khu vực nông thôn. Trang bị động lực, số lượng, chủng loại máy, thiết bị nông nghiệp tăng nhanh; nhiều loại máy, thiết bị, công nghệ hiện đại được áp dụng trong sản xuất như: Thiết bị bay không người lái (drone) phun thuốc bảo vệ thực vật, gieo hạt, phân, bơm nước thông minh. Cơ giới hóa đồng bộ từ làm đất, gieo, cấy, chăm sóc, thu hoạch, sấy, tiêu thụ sản phẩm... đã phát triển tại nhiều địa phương; cơ giới hóa sản xuất lúa tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vùng Đồng bằng sông Hồng, khâu làm đất đạt 100%, thu hoạch trên 90%, thu gom rơm rạ vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt trên 90%... Đến nay, trang bị động lực trong sản xuất nông nghiệp đạt 3,3 mã lực/01 héc-ta canh tác, giúp cho nhiều nông sản có năng suất cao, đứng đầu trên thế giới, như gạo cà phê, điều, cá tra. Trong khai thác thủy sản, đóng mới được 1.031 chiếc tàu, chiếm 50% tổng số tàu đóng mới.
Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản phát triển nhanh cùng với ứng dụng công nghệ cao để tích hợp đa giá trị và giúp giảm chi phí, nâng cao giá trị gia tăng; tỷ lệ nông sản thông qua chế biến tăng dần; tập trung khắc phục và đạt được nhiều thành công trong giải mã các “điểm nghẽn” về phát triển công nghiệp chế biến, thị trường tiêu thụ nông, lâm, thủy sản. Hình thành và phát triển hệ thống công nghiệp chế biến nông sản với gần 7.600 cơ sở quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu có công suất thiết kế bảo đảm chế biến, bảo quản trên 120 triệu tấn nguyên liệu mỗi năm. Nhiều doanh nghiệp, tập đoàn tư nhân lớn đã triển khai các dự án đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông sản, trong đó có những cơ sở hiện đại hàng đầu thế giới với công nghệ tiên tiến về rau quả, tôm, cá tra, giết mổ gia súc, gia cầm, cà phê, đồ gỗ... như chế biến cà phê hòa tan tăng gấp 2,5 lần, trên 90% tổng lượng gạo xuất khẩu là gạo chất lượng cao. Tỷ lệ nông sản chế biến xuất khẩu chiếm tới 45% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản; giá trị xuất khẩu sản phẩm chế biến sâu đạt khoảng 35% tổng giá trị nông sản xuất khẩu.
Năm là, khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, nông thôn tiếp tục phát triển, là giải pháp đột phá về năng suất, chất lượng và nâng cao năng lực cạnh tranh; đồng thời tạo 3 trục sản phẩm nông nghiệp đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm; phát triển theo hướng nông nghiệp xanh, sạch, nông nghiệp thông minh. Nhiều sản phẩm chủ lực cấp quốc gia, cấp tỉnh có hàm lượng KH&CN cao được áp dụng từ khâu sản xuất giống, nuôi trồng, chế biến như tôm, cá tra, sản phẩm gỗ...; nhiều vùng nuôi trồng, nhiều nhà máy chế biến công nghệ cao đã đi vào hoạt động và đang phát huy hiệu quả. Ở nhóm sản phẩm đặc sản địa phương “OCOP”, kết hợp giữa truyền thống với ứng dụng KH&CN đa dạng, phong phú, chất lượng, mẫu mã bao bì đẹp, truy xuất được nguồn gốc. Lũy kế đến nay, toàn ngành có 1.435 TCVN và 107 QCVN (trong đó quản lý vật tư nông nghiệp có 448 TCVN và 35 QCVN).
Các mô hình công nghệ cao, công nghệ tiên tiến đã và đang được ứng dụng trong từng khâu hoặc trong cả chuỗi sản xuất để mang lại giá trị gia tăng cao cho sản phẩm nông nghiệp, thúc đẩy xây dựng các khu, vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (NNƯDCNC). Tính đến thời điểm trước ngày 01/7/2025, 5 khu NNƯDCNC (Hậu Giang (nay là thành phố Cần Thơ), Bạc Liêu (nay là tỉnh Bạc Liêu), Phú Yên (nay là tỉnh Đắk Lắk), Thái Nguyên, Quảng Ninh) và 1 khu lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao (Nghệ An) được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, có 18 vùng NNƯDCNC địa phương công nhận; có trên 135 khu sản xuất NNƯDCNC do doanh nghiệp đầu tư; có 290 doanh nghiệp NNƯDCNC và 1.920 hợp tác xã NNƯDCNC. Cả nước có khoảng 690 vùng sản xuất nông nghiệp, trong đó trên 70% đạt tiêu chí vùng NNƯDCNC.
Chương trình công nghệ sinh học nông nghiệp đã tạo ra nhiều giống cây con được công nhận, sản xuất thử nghiệm, bước đầu xây dựng quy trình công nghệ và tiến hành các thí nghiệm trên đồng ruộng và trong phòng thí nghiệm.
Sáu là, hệ thống tổ chức sản xuất, kinh doanh từng bước hoàn thiện, phù hợp hơn với kinh tế thị trường hội nhập quốc tế. Phát triển hợp tác, liên kết sản xuất, từng bước tham gia vào chuỗi giá trị nông sản toàn cầu: Kinh tế tập thể, hợp tác xã có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, cơ bản khắc phục tình trạng yếu kém. Cả nước có gần 23.000 hợp tác xã nông nghiệp và trên 2.500 hợp tác xã NNƯDCNC, chuyển đổi số; có 19.660 trang trại (14). Lực lượng doanh nghiệp nông nghiệp tăng mạnh với khoảng 17.300 doanh nghiệp, khẳng định vai trò trung tâm thúc đẩy nông nghiệp phát triển; nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đẩy mạnh đầu tư trở thành nòng cốt của chuỗi giá trị và sản xuất ứng dụng công nghệ cao, phát triển thị trường. Bên cạnh sự đầu tư, phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một số tập đoàn, doanh nghiệp lớn tiếp tục gia tăng đầu tư vào nông nghiệp, nhất là NNƯDCNC như: Nafoods, TH, Dabaco Việt Nam, Masan, Lavifood, Công ty Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao, Thương mại và Đầu tư Biển Đông...
Bảy là, Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đạt được những kết quả ấn tượng, ngày càng thực chất, hiệu quả hơn, ngày càng thu hút được sự tham gia đầu tư của cộng đồng xã hội. Từ năm 2013, thực hiện Đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, đã đổi mới công tác chỉ đạo, chuyển từ ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng sang trọng tâm là ưu tiên phát triển sản xuất để xây dựng nông thôn mới bền vững và bổ sung nhiệm vụ phát triển sản xuất gắn với cơ cấu lại ngành là nhiệm vụ trọng tâm đặt ra ngay từ khâu lập kế hoạch thực hiện Chương trình. Đến hết tháng 6/2025 (thời điểm chuyển sang mô hình chính quyền "2 cấp", cả nước có 79,3% xã đạt chuẩn nông thôn mới (cơ bản hoàn thành mục tiêu cả giai đoạn 2021 - 2025 được giao); trong đó 2.567 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 745 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu. Có 329 đơn vị cấp huyện (vượt mục tiêu cả giai đoạn 2021 - 2025 được giao) và 13 tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (đạt 87% mục tiêu cả giai đoạn 2021 - 2025 được giao). Sản phẩm OCOP phát triển nhanh về lượng và nâng cao chất lượng, phát triển thương hiệu; đã có 15.000 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên (tăng hơn 3.900 sản phẩm so với năm 2023) với hơn 8.000 chủ thể tham gia; có 21.700 hợp tác xã nông nghiệp và 19.660 trang trại.
Hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được đầu tư nâng cấp và từng bước hiện đại hóa, phục vụ ngày càng tốt hơn cho sản xuất, đời sống dân sinh, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Dự kiến hết năm 2025, các công trình thủy lợi được đầu tư đã tăng dung tích hồ chứa thêm trên 2,04 tỷ m3; diện tích tưới trực tiếp tăng thêm 388 nghìn héc-ta; kiểm soát mặn, giữ ngọt cho trên 1,8 triệu héc-ta. Công tác phòng, chống thiên tai được đặc biệt quan tâm; chuyển từ bị động ứng phó sang chủ động phòng ngừa, lấy phòng ngừa làm chính.
Bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo việc định vị và nâng cao vị thế quốc tế của nông nghiệp Việt Nam
Một là, bài học kinh nghiệm lớn, sâu sắc đúc rút cho toàn ngành Nông nghiệp để có được thành tựu trên là sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo rất cụ thể của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự giúp đỡ, hỗ trợ của cả hệ thống chính trị; lựa chọn những giải pháp đột phá để chỉ đạo quyết liệt như: Mở cửa thị trường, áp dụng quy trình sản xuất tốt, an toàn, chất lượng; tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư của xã hội, doanh nghiệp; khơi dậy niềm tin và khích lệ tinh thần đổi mới, sáng tạo khởi nghiệp toàn xã hội; thường xuyên quan tâm đời sống người dân, quán triệt tinh thần “phát triển bao trùm, không ai bị bỏ lại phía sau”.
Kiên định về nhận thức, tư tưởng, đường lối và chỉ đạo thông suốt về mục tiêu phát triển nông nghiệp là ngành kinh tế động lực qua các giai đoạn phát triển của đất nước. Cần có nhận thức đúng về vị trí, vai trò chiến lược đặc biệt quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân và người dân nông thôn là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, thường xuyên, lâu dài, cần có quyết tâm chính trị cao, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự chung sức, đồng lòng của toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phát huy vai trò của người đứng đầu, nơi nào tổ chức Đảng, nhất là người đứng đầu Cấp ủy quan tâm, trực tiếp chỉ đạo, các đảng viên gương mẫu thực hiện thì ở đó đạt hiệu quả cao hơn.
Hai là, phát huy ý chí, sức mạnh, vai trò chủ thể của nông dân và người dân nông thôn trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn là yếu tố quyết định thành công. Liên kết giữa nông dân, trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp... để hình thành các chuỗi giá trị, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp là tiền đề quan trọng để khắc phục tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống của người dân nông thôn.
Ba là, thành tựu phát triển nông nghiệp giai đoạn 2016 - 2020 là động lực cơ cấu lại ngành đem lại lợi ích cho nông dân, phát huy vai trò chủ thể của nông dân; do đó cần kịp thời rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách phù hợp tạo đột phá, thúc đẩy phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của nông dân. Bám sát thực tiễn, xây dựng thể chế, chính sách CNH, HĐH nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người dân. Kịp thời sửa đổi, bổ sung, ban hành cơ chế, chính sách, chương trình, đề án, kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn; đổi mới, sáng tạo, quyết liệt trong tổ chức thực hiện. Thường xuyên, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, phổ biến cách làm hay, khắc phục những hạn chế, bất cập, tháo gỡ các vướng mắc; động viên khen thưởng kịp thời và phù hợp.
Những chính sách hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn được nghiên cứu, thiết kế linh hoạt và đổi mới phù hợp với điều kiện thực tiễn của sản xuất và đặc thù của từng địa phương như: Chính sách về ưu đãi, khuyến khích đẩy mạnh cơ giới hóa nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản; các chương trình tín dụng ưu đãi, giúp nông dân tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn; đồng thời, thúc đẩy mạnh mẽ chuyển giao khoa học kỹ thuật và cung cấp giống cây, giống con chất lượng cao đã giúp người dân cải thiện năng suất và thu nhập...
Bốn là, cơ cấu lại nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn phải bắt đầu từ thị trường, phát huy lợi thế so sánh gắn với ứng dụng KH&CN, đổi mới sáng tạo của người dân để làm ra sản phẩm có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao. Thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại nông nghiệp theo ba trục sản phẩm chất lượng, an toàn thực phẩm, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu (nhóm sản phẩm chủ lực cấp quốc gia; nhóm sản phẩm chủ lực cấp tỉnh; nhóm sản phẩm địa phương - (OCOP) triển khai từ năm 2018 đã phát triển mạnh mẽ, có chiều sâu, trở thành điểm nhấn trong phát triển kinh tế nông thôn). Nhiều sản phẩm chủ lực cấp quốc gia, cấp tỉnh có hàm lượng KH&CN cao được áp dụng từ khâu sản xuất giống, nuôi trồng, chế biến như tôm, cá tra, sản phẩm gỗ...; rất nhiều vùng nuôi trồng, nhiều nhà máy chế biến sản phẩm công nghệ cao đã đi vào hoạt động và đang phát huy hiệu quả. Sản phẩm OCOP kết hợp truyền thống với ứng dụng KH&CN đa dạng, phong phú, chất lượng, mẫu mã bao bì đẹp, truy xuất được nguồn gốc nhằm nâng cao giá trị gia tăng, phù hợp với quá trình chuyển đổi số, phát triển ngành nghề nông thôn; phát triển du lịch nông thôn; nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã; hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp ở nông thôn; nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế, nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ tiến bộ khoa học và công nghệ, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, phát triển thị trường, tận dụng cơ hội các Hiệp định Thương mại Tự do (FTAs), nâng cao năng lực cạnh tranh là những yếu tố có tính quyết định đến thành công của quá trình CNH nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thời gian tới
Bối cảnh thế giới và tình hình trong nước
Bối cảnh thế giới và tình hình trong nước tiếp tục có nhiều biến động sâu sắc hơn; cạnh tranh địa chính trị và địa kinh tế, căng thẳng thương mại giữa một số nền kinh tế lớn tiếp tục gia tăng. Các biến động chính trị, xung đột cục bộ, tranh chấp biên giới lãnh thổ và những vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống tiếp tục tác động tiêu cực đến phát triển KT - XH. Các nước lớn và các trung tâm quyền lực điều chỉnh chính sách, tiếp tục vừa cạnh tranh vừa hợp tác, thỏa hiệp, song cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Chính sách thuế đối ứng của chính quyền Hoa Kỳ tạo ra bất ổn trong thương mại và đầu tư toàn cầu, tạo ra các thách thức mới chưa từng có tiền lệ. Cạnh tranh kinh tế, xung đột thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng quyết liệt, tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu. Toàn cầu hóa và liên kết kinh tế vẫn tiến triển, dù đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn; khu vực hóa và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng đi đôi với xu hướng điều chỉnh chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu. Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương tiếp tục là phương thức quan trọng trong ngăn ngừa và giải quyết hòa bình các tranh chấp, xung đột, các vấn đề xuyên biên giới, mặc dù đang đối mặt với nhiều trở ngại. Các thách thức toàn cầu tiếp tục tác động bất lợi đến an ninh và phát triển của tất cả các nước, trong đó có Việt Nam. Các quốc gia và tổ chức quốc tế ngày càng siết chặt các tiêu chuẩn “xanh” đối với thương mại nông sản. Yêu cầu về truy xuất nguồn gốc, sản xuất bền vững, không phá rừng, không phát thải cao đã trở thành rào cản kỹ thuật bắt buộc đối với mặt hàng xuất khẩu vào các thị trường như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng và trở thành thách thức mang tính toàn cầu, dài hạn. Thiên tai, nước biển dâng, xâm nhập mặn là các tác động của biến đổi khí hậu đối với nước ta, xuất hiện ngày càng nhiều, rõ rệt hơn, gây thiệt hại lớn đến phát triển KT - XH.
Ở trong nước, sau 40 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao; vị thế của ngành Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục được khẳng định, giữ vai trò quan trọng. Nông nghiệp tiếp tục là trụ đỡ trong mọi bối cảnh của nền kinh tế, trong xây dựng, phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế. Các thách thức chủ yếu sẽ đến từ thay đổi cơ cấu kinh tế, làm mới các động lực tăng trưởng, xu hướng già hóa dân số; chuyển dịch cơ cấu lao động chậm, việc làm, chất lượng lao động nông thôn và lao động di cư; quá trình đô thị hóa, CNH ngày càng nhanh, mạnh, ảnh hưởng đến tài nguyên, đầu vào cho ngành Nông nghiệp và Môi trường; thay đổi nhu cầu, thu nhập người dân; KH&CN phát triển, phát triển kinh tế xanh; phát triển các hình thức tổ chức sản xuất để nâng cao giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững.
Đạt mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050 là mục tiêu phát triển tất yếu của thế giới, thực hiện chủ yếu thông qua giảm phát thải khí nhà kính, chuyển đổi năng lượng, phát triển kinh tế các-bon thấp; cũng là luật chơi mới về thương mại, đầu tư toàn cầu đã được xác lập kể từ sau Hội nghị COP26. Việt Nam có tiềm năng lớn về các khoáng sản quan trọng, thiết yếu. Tuy nhiên, hiện nay còn chưa có chính sách phát triển dành riêng đối với khoáng sản chiến lược, khoáng sản quan trọng; chưa làm chủ được công nghệ tinh chế, chế biến sâu; quy mô khai thác, chế biến còn nhỏ, lẻ, dẫn tới tỷ lệ thất thoát cao; chưa có cơ chế đủ hấp dẫn để thu hút đầu tư, liên doanh, liên kết, tận dụng nguồn vốn, công nghệ hiện đại. Ô nhiễm môi trường đang ở mức tới hạn, hệ sinh thái tự nhiên bị thu hẹp, đa dạng sinh học bị suy giảm, nếu không có giải pháp mạnh mẽ sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới phát triển KT - XH của đất nước. Ngược lại, chuyển đổi xanh đang mở ra cơ hội tăng trưởng nhanh, thậm chí đạt hai con số mà không gây suy thoái môi trường. Để hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước có thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, Việt Nam đang phải đối mặt với áp lực kép: Duy trì tăng trưởng nhanh đồng thời bảo đảm phát triển bền vững. Với kỳ vọng đạt mức tăng trưởng 8% vào năm 2025 và tăng trưởng “hai con số” trong các năm tiếp theo, các thách thức về môi trường và biến đổi khí hậu sẽ ngày càng gia tăng. Nếu không có các chủ trương, giải pháp mạnh mẽ, hành động quyết liệt, tốc độ ô nhiễm sẽ vượt quá năng lực kiểm soát, công tác ứng phó với biến đổi khí hậu và thiên tai ngày càng khó khăn hơn.
Mục tiêu
- Mục tiêu chung: Phát triển một nền nông nghiệp thông minh, hội nhập quốc tế, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới phồn vinh và văn minh. Phấn đấu thực hiện mục tiêu xây dựng một nền nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại.
- Mục tiêu đến năm 2030: (i) Tốc độ tăng trưởng GDP nông, lâm, thủy sản khoảng 3,5%/năm; (ii) Tăng trưởng công nghiệp, dịch vụ nông thôn trên 10%/năm; (iii) Số xã đạt chuẩn nông thôn mới trên 65%; (iii) Thu nhập bình quân của dân cư nông thôn tăng gấp 3 lần so với năm 2020; (iv) Lao động nông nghiệp còn khoảng 15% trong tổng lao động xã hội.
Các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
Trước bối cảnh và yêu cầu mới, nhất là biến động phức tạp của tình hình chính trị, kinh tế trên thế giới và sự thay đổi về mô hình tổ chức chính quyền địa phương; để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng “2 con số” của nền kinh tế trong kỷ nguyên mới; chúng ta phải chung sức đồng lòng triển khai đồng bộ, hiệu quả các luật, chiến lược, chương trình, đề án, quy hoạch, kế hoạch phát triển toàn ngành và các tiểu ngành, lĩnh vực; trong đó tập trung thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và các Nghị quyết khác có liên quan; Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; 20 Chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực, tài nguyên, môi trường và 12 Quy hoạch quốc gia, các quy hoạch ngành quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 lĩnh vực nông nghiệp và môi trường. Trong đó, tạo điểm nhấn, đột phá trong thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, nâng cao chất lượng xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về nông nghiệp, nông thôn. Hoàn thiện chính sách đất đai theo hướng quản lý chặt chẽ, bảo vệ và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Thúc đẩy tích tụ, tập trung đất đai trên cơ sở hình thành thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp, bảo vệ quyền lợi của nông dân. Tạo điều kiện cho nông dân sử dụng linh hoạt đất nông nghiệp, bao gồm cả đất trồng lúa để đạt thu nhập cao hơn.
Hai là, cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng hiện đại, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và bền vững: Phát triển theo hướng hiện đại, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và xây dựng nông thôn mới, phù hợp với Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh theo hướng cơ cấu lại sản xuất theo 3 trục sản phẩm chủ lực, theo vùng KT - XH và theo các ngành, lĩnh vực.
Ba là, đổi mới quan hệ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, thay đổi mô hình sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, thiếu liên kết, chủ yếu ở quy mô hộ sang mô hình sản xuất quy mô lớn, tập trung dựa vào doanh nghiệp, hợp tác xã và trang trại. Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả để tạo sức mạnh cung cấp cho thị trường những lô hàng nông, lâm, thủy sản lớn. Chú trọng thực thi các chính sách minh bạch, ưu đãi ổn định dài hạn, đơn giản hóa thủ tục hành chính để thu hút đầu tư tư nhân, phát triển các doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao liên kết với nông dân để đảm bảo cung cấp đầu vào có chất lượng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm do nông dân làm ra. Đồng thời, tiếp tục hình thành các hợp tác xã, tổ hợp tác để tập hợp nông dân tham gia có hiệu quả các chuỗi giá trị.
Bốn là, chú trọng phát triển công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ những lĩnh vực nông nghiệp mũi nhọn để phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Thúc đẩy cơ giới hóa, phát triển ngành nghề nông thôn thông qua chính sách giảm thuế suất thuế nhập khẩu máy phục vụ sản xuất nông, lâm, thủy sản trong nước chưa sản xuất được. Bên cạnh đó, để khai thác và nâng cao giá trị tổng hợp của sản xuất nông, lâm, thủy sản theo chuỗi liên kết, cần kết hợp nông nghiệp với các ngành dịch vụ khác như du lịch để tạo ra những hình thức như du lịch sinh thái, hoặc du lịch dựa trên nông nghiệp.
Năm là, nâng cao nhanh trình độ khoa học công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn: Đầu tư nâng cao năng lực hệ thống nghiên cứu và chuyển giao làm nòng cốt để làm chủ và nâng cao trình độ khoa học công nghệ nông nghiệp. Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao. Giai đoạn tới năm 2030, NSNN đầu tư cho nghiên cứu khoa học và khuyến nông tăng 10%/năm. Ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu, chọn tạo, phổ biến các giống mới, các quy trình sản xuất hiệu quả; ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ số, thông tin, viễn thông, viễn thám trong nông nghiệp; xây dựng nông thôn mới. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và khuyến nông theo Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển KH&CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Sáu là, nâng cấp và hiện đại hóa kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn: Nhà nước đầu tư và có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng cơ sở hạ tầng liên xã, cấp huyện, vùng, bảo đảm tính kết nối theo hệ thống, nhất là về thủy lợi, giao thông, hệ thống cơ sở hạ tầng thương mại; hỗ trợ phát triển hạ tầng công cộng ở cấp thôn, xóm bảo đảm tới năm 2030 có đường ô tô đi đến hầu hết các thôn, xóm.
Bảy là, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển thị trường hàng nông, lâm, thủy sản. Thay đổi trong cách tiếp cận ngành, chuyển sang tiếp cận thị trường hàng hóa cạnh tranh quốc tế; không chạy theo số lượng mà tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả; không sản xuất bằng mọi giá, lạm dụng tài nguyên thiên nhiên, vật tư nông nghiệp mà hướng tới nền sản xuất an toàn, bền vững về môi trường. Thực hiện kích cầu thị trường nội địa, bảo đảm tiêu thụ kịp thời, hiệu quả hàng hóa. Xây dựng, phát triển thương hiệu cho các mặt hàng nông, lâm, thủy sản; việc hình thành các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng nông, lâm, thủy sản có quy mô lớn, tăng cường xây dựng các chuỗi cung ứng nông sản... là cơ sở để hình thành các thương hiệu mạnh của các doanh nghiệp và nông, lâm, thủy sản Việt Nam trên thị trường thế giới. Tăng cường công tác thông tin, dự báo thị trường. Nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành hàng trong thực hiện các chiến lược phát triển sản xuất, liên kết trong kinh doanh.
Tám là, xây dựng nông thôn mới phát triển toàn diện, bền vững, thực chất, hiệu quả; gắn với đô thị hóa, nhất là các khu vực ven các đô thị lớn. Nâng cao chất lượng tiêu chí xây dựng nông thôn mới, từng bước tiệm cận điều kiện về hạ tầng và dịch vụ của các đô thị văn minh, xanh, sạch, đẹp, bình an, giàu bản sắc văn hóa truyền thống. Ưu tiên hỗ trợ xây dựng nông thôn mới ở các vùng có nhiều khó khăn, nhất là miền núi, hải đảo, không để tụt hậu và thua kém quá xa so với các vùng khác. Tiếp tục vận động và đầu tư hỗ trợ xây dựng nông thôn mới toàn diện và đi vào chiều sâu, cải thiện trực tiếp điều kiện sinh sống của cư dân nông thôn. Hỗ trợ các nông hộ phát triển sản xuất, kinh doanh; cải thiện nhà ở; xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ môi trường; xây dựng hệ thống chính trị; đảm bảo an ninh trật tự. Huy động nguồn lực duy tu, nâng cấp cơ sở hạ tầng cấp xã, nhất là về giao thông, thủy lợi.
Tài liệu tham khảo
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (1987). Văn kiện Đại hội lần thứ VI. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, tr. 153 - 154.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam (1994). Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đại hội lần thứ VII, Hà Nội, tr. 29.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Văn kiện Đại hội lần thứ VII. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, tr. 63.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam (1996). Văn kiện Đại hội lần thứ VIII. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 86 - 90.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đại hội lần thứ IX. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 168 - 171; 90 - 93.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội lần thứ X.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội lần thứ X, tr. 88.
(8) Các năm 2021, 2022, 2023, 2024 tốc độ tăng trưởng lần lượt là 2,9%, 3,36%, 3,83% 3,27% và 9 tháng đầu năm 2025 đạt 3,83%. Dự báo, tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành 5 năm 2021 - 2025, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra (từ 2,5 - 3%/năm).
(9) Các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long áp dụng thành công quy trình kỹ thuật rải vụ, nhờ vậy hiệu quả kinh tế của 5 loại cây ăn quả (thanh long, xoài, chôm chôm, sầu riêng, nhãn) tăng 1,5 - 2 lần.
(10) Mô hình cho đàn gà ăn, uống thức ăn được chế biến từ cây sâm (Tân Yên - Bắc Giang); mô hình nuôi lợn bằng các dược liệu quý của Hợp tác xã Nông nghiệp hữu cơ Bình Minh (Hiệp Hòa - Bắc Giang); cả nước có 17 tỉnh, thành phố có mô hình chăn nuôi lợn hữu cơ với quy mô nuôi trên 75 nghìn con; sản lượng thịt hơi gần 7.000 tấn.
(11) Mô hình chăn nuôi lợn theo chuỗi liên kết tại Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên; mô hình trang trại sinh thái khép kín ứng dụng công nghệ cao Phước An ở huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk; mô hình chuỗi giá trị nuôi ngao ở Nam Định; chuỗi liên kết nuôi và chế biến hàu Thái Bình Dương ở Vân Đồn, Quảng Ninh...
(12) Tập đoàn Quế Lâm liên kết theo chuỗi chăn nuôi lợn hữu cơ tại Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên...; mô hình trang trại sinh thái khép kín ứng dụng công nghệ cao Phước An ở huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk....
(13) Bao gồm: Trồng trọt có: Lúa gạo, cao su, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, sắn, rau quả; thủy sản có: Tôm, cá tra; lâm nghiệp có: Gỗ và sản phẩm từ gỗ; khác: Thức ăn gia súc và nguyên liệu; phân bón các loại và nguyên liệu.
(14) 3.308 trang trại trồng trọt, 12.349 trang trại chăn nuôi, 133 trang trại lâm nghiệp, 1.810 trang trại nuôi thủy sản, 2.060 trang trại tổng hợp.
NGUYỄN XUÂN CƯỜNG
Nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn