
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh kiểm tra thực tế tại dự án cải tạo nâng cấp đường tỉnh 177 (Bắc Quang- Xín Mần)
Phân bổ hợp lý, sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai
Theo báo cáo tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2023, triển khai phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2024 của ngành Tài nguyên và Môi trường: Hiện nay, các địa phương đang tích cực triển khai lập, trình thẩm định phê duyệt Kế hoạch sử dụng đất 05 năm (2021 - 2025) cấp tỉnh đồng thời với việc hoàn thiện, trình phê duyệt Quy hoạch tỉnh, thành phố thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Các địa phương đã cơ bản hoàn thành việc phê duyệt Quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 2021 - 2030 và Kế hoạch sử dụng đất năm 2023 cấp huyện. Hướng dẫn, phối hợp với các địa phương thực hiện tốt công tác thu hồi đất, giải phóng mặt bằng phục vụ thi công các công trình trọng điểm quốc gia: Cao tốc Bắc - Nam phía Đông, sân bay Quốc tế Long Thành,...Thực hiện Nghị quyết số 74/2022/QH15 ngày 15/11/2022 của Quốc hội về đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, toàn ngành đã tham mưu, xử lý 172 dự án, công trình không đưa đất vào sử dụng, chậm đưa đất vào sử dụng, với diện tích 6.922 ha.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 360/CĐ-TTg ngày 02/5/2023, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức rà soát, đánh giá kết quả thực hiện chỉ tiêu kế hoạch sử dụng đất đã được giao và tổng hợp chỉ tiêu sử dụng đất cần điều chỉnh trong quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 và kế hoạch sử dụng đất đến năm 2025. Theo đó, qua tổng hợp báo cáo của 63/63 tỉnh, thành phố cho thấy kết quả thực hiện một số chỉ tiêu sử dụng đất còn hạn chế. Trong khi đó, nhiều địa phương đang đề xuất điều chỉnh kế hoạch chỉ tiêu sử dụng đất đến năm 2025, chủ yếu tập trung vào đất trồng lúa, đất khu công nghiệp, đất phát triển hạ tầng,…
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu đất đai, cung cấp các dịch vụ công trực tuyến liên quan đến lĩnh vực đất đai phục vụ người dân, doanh nghiệp. Kết quả xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai trong cả nước đã có những chuyển biến tích cực, nhiều địa phương đã từng bước đưa cơ sở dữ liệu đất đai vào quản lý, vận hành, khai thác sử dụng có hiệu quả, minh bạch, rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục hành chính, kết nối liên thông điện tử với các cơ quan có liên quan, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai.
Công tác đo đạc lập bản đồ địa chính, kê khai, đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận và xây dựng CSDL đất đai đạt được những kết quả đáng khích lệ. Cả nước đã cấp được hơn 44 triệu Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích đã cấp giấy chứng nhận đạt trên 23,6 triệu ha, chiếm tỷ lệ khoảng 97,6% diện tích cần cấp. Đến nay có 455/705 đơn vị hành chính cấp huyện đã hoàn thành CSDL địa chính với hơn 46 triệu thửa đất đưa vào vận hành phục vụ công tác quản lý nhà nước về đất đai và giải quyết thủ tục hành chính về đất đai cho người dân, doanh nghiệp; 46/63 tỉnh, thành phố đã kết nối, liên thông giữa cơ quan Đăng ký đất đai với cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với hộ gia đình, cá nhân; 63/63 tỉnh, thành phố đã thực hiện kết nối, chia sẻ với CSDL quốc gia về dân cư, trong đó đã kết nối được dữ liệu của 461/705 đơn vị cấp huyện, 6.198/10.599 đơn vị cấp xã; 34/63 tỉnh, thành phố đã kết nối, liên thông giữa cơ sở dữ liệu đất đai của địa phương với hệ thống một cửa điện tử của địa phương.
Triển khai các chủ trương, giải pháp đảm bảo an ninh nguồn nước
Cũng trong năm 2023, toàn ngành Tài nguyên và Môi trường đã tập trung triển khai thực hiện Quy hoạch Tài nguyên nước quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đên năm 2050 và lập quy hoạch tổng hợp các lưu vực sông; thực hiện đề án tổng kiểm kê tài nguyên nước quốc gia. Tăng cường thực hiện công tác quản lý, thẩm định và hậu kiểm hồ sơ đề nghị cấp giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn nước và hành nghề khoan nước dưới đất. Thực hiện giám sát việc vận hành các hồ chứa theo quy trình vận hành liên hồ, đến nay 100% đã được kết nối, cung cấp thông tin, dữ liệu hàng ngày; theo dõi, giám sát trực tuyến vận hành 90% hồ chứa thủy điện lớn; thực hiện phân bổ nguồn nước hợp lý cho các mục đích sử dụng nước. Thực hiện lập hành lang bảo vệ nguồn nước, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; hầu hết các hồ thủy điện đang hoạt động (trên 1 triệu m3) đã và đang hoàn thành việc cắm mốc hàng lang.
Bên cạnh đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức thực hiện điều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới đất tại các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước, theo đó, đã phê duyệt 286 vùng cao tại 41 tỉnh. Triển khai nhiệm vụ nghiên cứu đề xuất giải pháp tổng thể để thực hiện chủ trương, chính sách trong quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn nước sông Mê Công; tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động hợp tác về quản lý nguồn nước xuyên biên giới thông qua cơ chế hợp tác Ủy hội Mê Công quốc tế và các cơ chế hợp tác tiểu vùng khác.
Phát huy vai trò nguồn lực quản lý nhà nước về khoáng sản
Trong năm 2023, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với các Bộ, ban, ngành và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường; tiếp tục thực hiện Chỉ thị 38/CT-TTg ngày 29/9/2020 của Thủ tướng Chính phủ, nhờ đó công tác quản lý nhà nước về khoáng sản và hoạt động khoáng sản đã có những chuyển biến rõ nét, tích cực. Phần lớn các địa phương đã có quy hoạch khoáng sản hoặc đang rà soát, bổ sung điều chỉnh các quy hoạch khoáng sản thuộc thẩm quyền, đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác cấp phép hoạt động khoáng sản được thực hiện theo quy định.
Để đáp ứng yêu cầu triển khai đồng loạt thi công các dự án thành phần thuộc dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, Bộ đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tham mưu cho Quốc hội, Chính phủ ban hành các nghị quyết cho phép áp dụng các "cơ chế đặc thù" trong việc khai thác khoáng sản làm vật liệu san lấp, hướng dẫn các địa phương có dự án đi qua và nằm trong hồ sơ dự án về quy trình, thủ tục đăng ký khối lượng, khu vực khai thác mỏ nhằm rút ngắn thời gian, có thể khai thác ngay vật liệu cung cấp cho dự án. Đến nay, các khu vực phía Bắc và Tây nguyên cơ bản đáp ứng vật liệu cho các dự án, tiếp tục chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn đối với các dự án tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đã đánh giá được tài nguyên khoáng sản cát biển đáp ứng yêu cầu làm vật liệu san lấp cấp 333 + cấp 222 đạt 680 triệu m3, trong đó cấp tài nguyên 222 là 145 triệu m3, chuyển giao kịp thời để khai thác phục vụ vập liệu đắp nền cho các dự án đường cao tốc và các dự án xây dựng khác ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Theo số liệu thống kê, các địa phương đã phê duyệt 103 kế hoạch đấu giá với hơn 200 khu vực và tổ chức thành công các phiên đấu giá thuộc thẩm quyền, đảm bảo tính công khai, minh bạch, lựa chọn được các doanh nghiệp có đủ năng lực về vốn, công nghệ, thiết bị tham gia vào hoạt động khoáng sản. Công tác khoanh định khu vực cấm hoạt động khoáng sản, khu vực tạm cấm hoạt động khoáng sản cơ bản đã được các địa phương thực hiện và hoàn thành. Năm 2023, nguồn thu từ hoạt động khoáng sản đóng góp lớn vào ngân sách Nhà nước, tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản đã nộp 16.479 tỷ đồng tiền cấp quyền khai thác khoáng sản vào ngân sách nhà nước.
Hoàn thiện thể chế quản lý tổng hợp về biển và hải đảo
Cũng theo Báo cáo tại Hội nghị, các địa phương ven biển đã thực hiện tốt việc tuyên truyền, hướng dẫn các tổ chức, cá nhân thực hiện các quy định của pháp luật về tài nguyên nước, biển và hải đảo; triển khai thực hiện Nghị định số 11/2021/NĐ-CP ngày 10/02/2021 của Chính phủ quy định việc giao khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển. Triển khai thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-CP ngày 03/4/2023 của Chính phủ về phê duyệt Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đến nay, đã có 26/28 tỉnh, thành phố có biển đã phê duyệt Danh mục hành lang bảo vệ bờ biển (HLBVBB).
Để triển khai hiệu quả nhiệm vụ này, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với các cơ quan thực hiện chức năng tổng hợp, theo dõi, quản lý đảm bảo chất lượng, hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ, dự án thuộc Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đến năm 2030; đề xuất Thủ tướng Chính phủ thành lập Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Thực hiện nhiệm vụ Văn phòng Cơ quan thường trực Ủy ban quốc gia thực hiện Chiến lược phát triền bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan chủ trì nhiệm vụ, dự án rà soát, đề xuất điều chỉnh các nhiệm vụ, dự án thuộc Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đến năm 2030.
Việt Anh
Bài 3: Thực thi hiệu quả chính sách pháp luật, chủ động triển khai các chiến lược, kế hoạch về ứng phó với biến đổi khí hậu