
Thời gian qua, công tác BVMT đã được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo, là một trong ba trụ cột phát triển bền vững, đã tạo được sự chuyển biến và đạt được một số kết quả bước đầu quan trọng. Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, xảy ra nhiều sự cố gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất của nhân dân.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do nhận thức, ý thức trách nhiệm của các ngành, các cấp, doanh nghiệp và người dân còn hạn chế. Nhiều địa phương còn chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt, xem nhẹ công tác bảo vệ môi trường; chưa phát huy hiệu quả vai trò, trách nhiệm và sự tham gia của các tổ chức xã hội, cộng đồng, người dân. Hệ thống pháp luật, quy chuẩn còn nhiều bất cập, thiếu khả thi; thiếu quy định, tiêu chí, công cụ để sàng lọc, lựa chọn dự án đầu tư, công nghệ sản xuất, xử lý môi trường, kiểm soát hoạt động xả thải của doanh nghiệp,...
Thực trạng đánh giá tác động môi trường tại Việt Nam
Ngày 17/11/2020, Quốc hội khóa XIV đã tiến hành biểu quyết thông qua Luật BVMT năm 2020, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp lý về môi trường. Trong đó, Luật đồng bộ các công cụ quản lý môi trường theo từng giai đoạn của dự án, bắt đầu từ khâu xem xét chủ trương đầu tư, thẩm định, thực hiện dự án cho đến khi dự án đi vào vận hành chính thức và kết thúc dự án: Lần đầu tiên, cộng đồng dân cư được quy định là một chủ thể trong công tác BVMT; tăng cường công khai thông tin, tham vấn, phát huy vai trò của cộng đồng dân cư trong các hoạt động BVMT; thay đổi phương thức quản lý môi trường đối với dự án đầu tư theo các tiêu chí môi trường; kiểm soát chặt chẽ dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao, thực hiện hậu kiểm đối với các dự án có công nghệ tiên tiến và thân thiện môi trường; cắt giảm thủ tục hành chính.
Ở giai đoạn này, các dự án đầu tư tại những vùng có yếu tố nhạy cảm về môi trường cần được quan tâm. Cụ thể:
Thứ nhất, cần đánh giá sự phù hợp, tính khả thi của các công trình, biện pháp bảo vệ môi trường để bảo đảm giảm thiểu tối đa tác động tiêu cực từ việc thực hiện dự án đến cảnh quan thiên nhiên, hệ sinh thái rừng ngập mặn, tính đa dạng sinh học và chất lượng nước biển ven bờ khu vực thực hiện dự án. Bên cạnh đó, rà soát quá trình thẩm định, phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi của dự án có tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về BVMT hay chưa để có biện pháp xử lý phù hợp, kịp thời.
Thứ hai, mặc dù quy định tại Điều 24 Nghị định số 156/2018/ NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp nêu rõ, khi xây dựng các công trình phục vụ cho hoạt động du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí bảo đảm các nguyên tắc ngăn chặn việc làm ảnh hưởng đến môi trường (không phá vỡ cảnh quan môi trường, không chặt phá rừng, các công trình xây dựng phải dựa vào thiên nhiên, hài hòa với cảnh quan môi trường; bảo đảm đúng quy định của pháp luật; không làm mất quyền sở hữu của Nhà nước về rừng, tài nguyên thiên nhiên trên mặt đất và dưới lòng đất; không làm ảnh hưởng đến QP-AN, danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử - văn hóa…), tuy nhiên, thông qua việc tham vấn cộng đồng lại chỉ rõ rất nhiều khu vực chịu tác động, ảnh hưởng từ công trình thi công và hoạt động của dự án.
Hoàn thiện pháp luật về đánh giá tác động môi trường
Thứ nhất, đối với hình thức áp dụng ưu đãi đầu tư mặc dù đã quy định nhóm “doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tổ chức khoa học công nghệ”, tuy nhiên, chưa thể hiện những chính sách ưu đãi nhằm thu hút đối với nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động sử dụng công nghệ cao, tiên tiến gắn với BVMT. Bởi, nguồn đầu tư sử dụng công nghệ cao gắn với BVMT tại các nước phát triển như: Mỹ, Nhật Bản, Anh... đầu tư tại Việt Nam. Cụ thể hơn, cần bổ sung “ngành, nghề tiên tiến trong bảo vệ môi trường” từ các dự án của nhà đầu tư nước ngoài, để thực hiện được cần phải khảo sát các dự án của nhà đầu tư nước ngoài, đánh giá những nhà đầu tư tích cực trong bảo vệ môi trường, tạo nên những ngành, nghề đặc thù có khả năng thu hút đầu tư.
Thứ hai, cần nghiên cứu về xây dựng quy hoạch vùng “kinh tế - môi trường” trọng điểm, đây là sẽ là cơ sở hình thành nên vùng kinh tế đặc biệt chú trọng đến cân bằng phát triển kinh tế và BVMT, hướng đến phát triển bền vững, bảo đảm thực thi ưu đãi, cần nghiên cứu bổ sung thủ tục rút gọn ưu đãi đầu tư đối với các dự án mang tính mới, hiệu quả cao trong BVMT.
Thứ ba, cụ thể hóa quy định về việc cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư quyết định ngừng hoặc ngừng một phần hoạt động của dự án đầu tư trong trường hợp “để khắc phục vi phạm môi trường theo đề nghị của cơ quan nhà nước quản lý về môi trường”. Nội dung này cần quy định theo hướng cụ thể nguyên tắc “coi trọng tính phòng ngừa”, bởi quyết định ngừng hoặc ngừng một phần hoạt động của dự án đầu tư trong trường hợp “khắc phục vi phạm môi trường” là chưa hợp lý mà cần phải phải ngăn chặn từ khi có hành vi không dự báo những tác động có thể xảy ra mà có đáng lẽ có thể nhận thấy được bằng những dẫn chứng khoa học, theo đó, đánh giá tác động môi trường là hoạt động mang tính phòng ngừa rõ ràng trong pháp luật về BVMT, là hoạt động được đề cao hàng đầu trong các hoạt động BVMT.
Thứ tư, cụ thể quy định về các trường hợp chấm dứt đầu tư đối dự án đầu tư thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 và 3 Điều 47 Luật Đầu tư năm 2020 mà nhà đầu tư không có khả năng khắc phục điều kiện ngừng hoạt động. Theo quy định này, các trường hợp chấm dứt hoạt động chỉ thể hiện nguyên nhân mang tính khách quan của nhà đầu tư mà chưa thể hiện nguyên nhân mang tính chủ quan của nhà đầu tư, đối với các trường hợp cố ý của nhà đầu tư trong việc không thực hiện, thực hiện không đầy đủ về môi trường (hoặc các lĩnh vực khác) chưa được đề cập đến. Điều này tạo nên tâm lý không xem trọng các quy định về môi trường, hệ quả pháp lý kéo theo là không bảo đảm cơ chế thực hiện chế tài trong xác định các biện pháp pháp lý đối với nhà đầu tư vi phạm quy định về BVMT trong hoạt động đầu tư.
Thứ năm, cần có sự thống nhất phối hợp giữa cơ quan chuyên môn về BVMT và các cơ quan chuyên môn khác phối hợp trong công tác BVMT. Cần có sự liên thông thống nhất trong các thủ tục hành chính về môi trường nói chung và đánh giá tác động môi trường nói riêng, từ những đề xuất thay đổi luật thì các bộ, ngành chuyên môn cần có hướng dẫn cụ thể cho các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh để tránh xảy ra tình trạng độc lập trong áp dụng và thực thi pháp luật, bỏ sót thủ tục trong đầu tư, xây dựng. Đặc biệt, đối với thủ tục dành cho nhà đầu tư nước ngoài thì cần tăng cường giám sát thủ tục đăng ký đầu vào, bởi sự buông lỏng hoặc chưa hướng dẫn cụ thể sẽ làm giảm khả năng thu hút đầu tư vào Việt Nam.
DƯƠNG TUẤN CÔNG
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 13 (Kỳ 1 tháng 7) năm 2024