
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Trên cơ sở tổng kết 35 năm công cuộc đổi mới đất nước, 30 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển KT-XH (2011-2020) đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển KT-XH 5 năm 2021-2025), Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, có các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp mang tính chiến lược về BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) đều được thể hiện trong những mục riêng với nhiều nội dung mới; đặc biệt nhấn mạnh việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ bền vững môi trường, chủ động giám sát, ứng phó có hiệu quả với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT,...
Đại hội XIII đánh giá, những năm qua, quản lý tài nguyên, BVMT và thích ứng với BĐKH được coi trọng, bước đầu đạt kết quả tích cực. Hệ thống chính sách, pháp luật về những vấn đề này đã tiếp tục được hoàn thiện và tập trung triển khai thực hiện hiệu quả. Tuy vậy, trước thực tiễn nhiều thách thức cũng còn nhiều bất cập. Ý thức, nhận thức về vai trò, trách nhiệm BVMT của các cấp, các ngành, cộng đồng và doanh nghiệp, người đân chưa được phát huy đầy đủ. Vẫn để xảy ra một số sự cố môi trường gây hậu quả nghiêm trọng. Quản lý nhà nước trên một số mặt còn lỏng lẻo. Chất lượng môi trường một số nơi tiếp tục xuống cấp, thích ứng với BĐKH còn bị động, lúng túng,…
Nghị quyết Đại hội XIII quán triệt tầm nhìn và định hướng phát triển giai đoạn 2021-2030: “Chủ động thích ứng có hiệu quả với BĐKH, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy BVMT sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường (ONMT), bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”.
Định hướng các chỉ tiêu chủ yếu nhiệm kỳ Đại hội XIII, chỉ tiêu về môi trường đến năm 2025 được Nghị quyết xác định là: 1), Tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị là 95-100%, của dân cư nông thôn là 93-95%; 2), Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 90%; 3) Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn môi trường là 92%; 4), Tỷ lệ cơ sở gây ONMT quan trọng được xử lý đạt 100%; 5), Tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%. Trong quá trình thực hiện, quyết tâm phấn đấu đạt mục tiêu và chỉ tiêu cao nhất, đồng thời, chuẩn bị các phương án để chủ động thích ứng với những biến động của tình hình.
Những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, cấp thiết được đề ra nhằm giải quyết những thách thức thực tiễn như: Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ bền vững môi trường; bảo vệ, phát triển bền vững các hệ sinh thái, đa dạng sinh học; tập trung khắc phục, cải thiện tình trạng ONMT ở các đô thị, các cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, nhất là những cơ sở ô nhiễm mô trường nghiêm trọng. Có biện pháp bảo vệ, nâng cao chất lượng môi trường không khí, hạn chế ô nhiễm tiếng ồn, nhất là những cơ sở ONMT nghiêm trọng; xây dựng chiến lược an ninh nguồn nước quốc gia, bảo đảm nghiêm ngặt an ninh nguồn nước, nhất là nước sạch cho sinh hoạt; kiểm soát tốt tác động môi trường của các dự án khai thác tài nguyên,… phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch đáp ứng yêu cầu phát triển, cùng với đổi mới công nghệ xử lý chất thải, tái chế, tái sử dụng chất thải, sản xuất năng lượng từ chất thải, phát triển kinh tế tuần hoàn; phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái phù hợp với điều kiện từng vùng, tăng khả năng chống chịu, thích ứng với BĐKH,...
Bổ sung các quy định về thích ứng với biến đổi khí hậu trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020
Luật BVMT năm 2020 có nhiều điểm mới đáng chú ý liên quan đến hoạt động ứng phó với BĐKH so với Luật BVMT năm 2014. Cụ thể:
Chương IV Luật BVMT năm 2014 đã quy định về ứng phó BĐKH. Tuy nhiên, một số nội dung đang chồng lấn với các điều khoản trong các chương khác của Luật (nghiên cứu khoa học, quản lý chất thải,…), chưa cụ thể nội dung thích ứng BĐKH, do vậy, Luật BVMT 2020 đã bổ sung các quy định về thích ứng với BĐKH, giảm nhẹ phát thải KNK, bảo vệ tầng ô-dôn, trong đó xác định nội dung và trách nhiệm của Bộ TN&MT, các bộ, ngành liên quan và địa phương về thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ phát thải KNK; bổ sung quy định về lồng ghép nội dung ứng phó với BĐKH vào hệ thống chiến lược, quy hoạch, thực hiện cam kết quốc tế về BĐKH và bảo vệ tầng ô-dôn. Theo đó, thích ứng với BĐKH được định nghĩa là các hoạt động nhằm tăng cường khả năng chống chịu của hệ thống tự nhiên và xã hội, giảm thiểu tác động tiêu cực của BĐKH và tận dụng cơ hội do BĐKH mang lại (khoản 1 Điều 90).
Tại khoản 2, Điều 90 Luật BVMT năm 2020 quy định thích ứng với BĐKH gồm 3 nội dung chính:
Đánh giá tác động, tính dễ bị tổn thương, rủi ro, tổn thất và thiệt hại do BĐKH đối với các lĩnh vực, khu vực và cộng đồng dân cư trên cơ sở kịch bản BĐKH và dự báo phát triển KT-XH;
Triển khai hoạt động thích ứng với BĐKH, giảm nhẹ rủi ro thiên tai, mô hình thích ứng với BĐKH dựa vào cộng đồng và dựa vào hệ sinh thái; ứng phó với nước biển dâng và ngập lụt đô thị;
Xây dựng, triển khai hệ thống giám sát và đánh giá hoạt động thích ứng với BĐKH.
Luật BVMT năm 2020 đã quy định lại một số nội dung liên quan đến hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK như: Tổ chức thực hiện hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK và hấp thụ KNK theo lộ trình, phương thức giảm nhẹ phát thải KNK phù hợp với điều kiện của đất nước và cam kết quốc tế; kiểm kê KNK và đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải KNK cấp quốc gia, cấp ngành, lĩnh vực và cấp cơ sở có liên quan; kiểm tra việc tuân thủ quy định về kiểm kê KNK, giảm nhẹ phát thải KNK, việc thực hiện cơ chế, phương thức hợp tác về giảm nhẹ phạt thải KNK; xây dựng và triển khai cơ chế, phương thức hợp tác về giảm nhẹ phát thải KNK phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; tổ chức và phát triển thị trường các-bon trong nước (khoản 2 Điều 91).
Lần đầu tiên chế định về tổ chức và phát triển thị trường các-bon trong nước được thực hiện để đẩy mạnh giảm phát thải KNK, góp phần thực hiện đóng góp về giảm nhẹ phát thải KNK do Việt Nam cam kết khi tham gia Thỏa thuận Paris về BĐKH. Trong đó, quy định rõ đối tượng được phân bổ hạn ngạch phát thải KNK và có quyền trao đổi, mua bán trên thị trường các-bon trong nước; căn cứ xác định hạn ngạch phát thải KNK; trách nhiệm của các cơ quan quản lý, tổ chức liên quan trong việc phân bổ hạn ngạch phát thải KNK; lộ trình và thời điểm triển khai thị trường các-bon trong nước để phù hợp với điều kiện KT-XH của đất nước và điều ước quốc tế mà nước CHXH Việt Nam là thành viên.
Khoản 1 Điều 93 Luật BVMT năm 2020 quy định lồng ghép ứng phó với BĐKH vào chiến lược, quy hoạch gồm các nội dung: Kịch bản BĐKH và tác động của BĐKH được sử dụng trong việc xác định mục tiêu dài hạn của chiến lược, quy hoạch; các giải pháp ứng phó với BĐKH được lồng ghép vào nội dung của chiến lược, quy hoạch; kết quả phân tích, đánh giá giải pháp ứng phó với BĐKH được sử dụng trong việc xác định chỉ tiêu KT-XH của chiến lược, quy hoạch. Đặc biệt, Chiến lược, quy hoạch quy định tại Điều 25 của Luật phải lồng ghép nội dung ứng phó với BĐKH theo quy định của Luật và quy định khác của pháp luật có liên quan (khoản 2 Điều 93).
Khoản 1 Điều 94 Luật BVMT năm 2020 quy định Cơ sở dữ liệu quốc gia về BĐKH gồm 10 nhóm thông tin và dữ liệu: Văn bản QPPL, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy định kỹ thuật và quy trình chuyên môn, định mức kinh tế - kỹ thuật về BĐKH và bảo vệ tầng ô-dôn; tác động của BĐKH đến TN&MT, hệ sinh thái, điều kiện sống và hoạt động KT-XH; phát thải KNK và hoạt động KT-XH có liên quan đến phát thải KNK; hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK và thích ứng với BĐKH; bảo vệ tầng ô-dôn và quản lý các chất làm suy giảm tầng ô-dôn; kết quả đánh giá khí hậu quốc gia; kịch bản BĐKH các thời kỳ; nghiên cứu khoa học, phát triển, chuyển giao công nghệ ứng phó với BĐKH và bảo vệ tầng ô-dôn; nguồn lực cho ứng phó với BĐKH và bảo vệ tầng ô-dôn; các hoạt động hợp tác quốc tế về ứng phó với BĐKH và bảo vệ tầng ô-dôn.
TÚ PHƯƠNG