Biến đổi khí hậu- Xu hướng tổn thất và thiệt hại trong tương lai

Thứ sáu, 2/6/2023, 15:38 (GMT+7)
logo Sự gia tăng mức độ phơi bày trước biến đổi khí hậu là nguyên nhân chính làm gia tăng thiệt hại kinh tế do thiên tai ở nước ta. Với dải ven biển có chiều dài 3.260 km và các vùng biển hải đảo, Việt Nam sẽ chịu nhiều rủi ro, tác động tiềm tàng liên quan đến biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Rủi ro sẽ gia tăng đối với các vùng đồng bằng và ven biển, đặc biệt là các đô thị ven biển do mật độ dân cư cao, quy hoạch đô thị, không gian chưa tính đến tác động của biến đổi khí hậu.

Gia tăng rủi ro do biến đổi khí hậu

Theo Kịch bản biến đổi khí hậu (BĐKH) của Việt Nam phiên bản cập nhật mới nhất, theo kịch bản cao, đến cuối thế kỷ, mực nước trung bình toàn dải ven biển có thể tăng 73 cm (49÷103 cm). Nếu mực nước biển dâng 100 cm, nguy cơ ngập (% diện tích) đối với các khu vực như sau: 47,3% vùng Đồng bằng sông Cửu Long, 13,2% vùng Đồng bằng sông Hồng; 1,9% tỉnh Quảng Ninh; 1,5% các tỉnh ven biển miền Trung; 17,2% TP.Hồ Chí Minh; 4,8% tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,..,

Khu vực miền núi phía Bắc và miền Trung chịu nhiều rủi ro do lũ quét và sạt lở đất. Vùng duyên hải Trung Bộ và Nam Trung Bộ, đồng bằng Bắc Bộ, các vùng trung du và Tây Nguyên chịu rủi ro do hạn hán, thiếu nước và gia tăng hoang mạc hoá. Đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ bị ngập do nước biển dâng, sụt lún đất và xâm nhập mặn. Nhóm người nghèo, dân tộc thiểu số, những người có sinh kế phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, người cao tuổi, phụ nữ, trẻ em, người bị bệnh tật là các nhóm có mức tổn thương cao nhất do BĐKH.

Các lĩnh vực có mức độ rủi ro cao là nông nghiệp, đa dạng sinh học, tài nguyên nước, sức khỏe cộng đồng, nhà ở và hạ tầng kỹ thuật do có mức độ phơi bày và mức độ nhạy cảm cao với thiên tai, khí hậu cực đoan. BĐKH là nguy cơ hiện hữu cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Tổn thất và thiệt hại do BĐKH gây ra tại một số nơi có thể làm đảo ngược những thành tựu đã đạt được trong thời gian dài. Sự gia tăng tần suất và cường độ các hiện tượng thời tiết cực đoan dẫn đến gia tăng rủi ro cho các vùng, các lĩnh vực và người dân. Do tác động của BĐKH và nước biển dâng, nguy cơ ngập dẫn đến mất đất canh tác nông nghiệp, nước tưới cho nông nghiệp, nước cấp cho sinh hoạt và công nghiệp bị nhiễm mặn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân.

Biến đổi khí hậu sẽ tác động tiêu cực đối với sức khỏe con người, nhất là người cao tuổi, phụ nữ, trẻ em, người mắc các bệnh mãn tính. Theo thống kê khi nhiệt độ trung bình tăng thêm 1oC, tỷ lệ nhập viện ở trẻ dưới 5 tuổi do các bệnh nhiễm khuẩn hô hấp tăng 3,8%. BĐKH tạo thuận lợi cho vector truyền bệnh phát triển, bùng phát và lây lan các bệnh dịch như cúm A, tiêu chảy, dịch tả, lỵ, sốt rét, sốt xuất huyết, sốt vàng da, thương hàn, viêm não do vi-rút, hội chứng hô hấp cấp tính, dịch hạch, zika.

Biến đổi khí hậu- Xu hướng tổn thất và thiệt hại trong tương lai

Nhiều bệnh nhân nhập viện do nắng nóng trong mùa hè 

Các đối với các đối tượng dễ bị tổn thương là phụ nữ, gia tăng nhiệt độ, các đợt nắng nóng kéo dài, hạn hán làm gia tăng căng thẳng, áp lực và lo lắng trong các hộ gia đình, có thể dẫn đến bạo lực đối với phụ nữ. Sự gia tăng tần suất các bệnh liên quan đến khí hậu và nhiệt độ đặt ra những thách thức đáng kể cho sức khỏe bà mẹ. Gia tăng nhiệt độ, các đợt nắng nóng kéo dài, hạn hán làm gia tăng tỷ lệ mắc các bệnh ở trẻ em và thanh thiếu niên. Gia tăng số ngày nắng nóng sẽ ảnh hưởng đến khả năng tập trung, học tập của trẻ em và năng lực giảng dạy của giáo viên. Lũ lụt ảnh hưởng đến cơ hội tiếp cận giáo dục của trẻ em do mất sinh kế có thể phải bỏ học, phải đối mặt với các hiểm họa môi trường sau thiên tai, thiệt hại cơ sở hạ tầng giáo dục. BĐKH có tác động mạnh đến người khuyết tật do họ có mức độ dễ bị tổn thương cao, hạn chế về khả năng thực hiện các hành động thích ứng và tham gia trong lập kế hoạch thích ứng. Đồng thời, cũng đối mặt với nguy hơn cao hơn trong trường hợp di dời khẩn cấp. Thiệt hại và gián đoạn các dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể dẫn đến sự giảm sút về thể trạng và gia tăng nguy cơ mắc các bệnh khác.

Biến đổi khí hậu được xác định là một trong những nguyên nhân chính làm gia tăng tình trạng nghèo và tái nghèo của các nhóm dân tộc thiểu số. Các nhóm dân tộc thiểu số chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên, lại bị hạn chế về khả năng thích ứng, tiếp cận thị trường và các dịch vụ tài chính cho thích ứng và phục hồi sau thiên tai, khiến họ có nguy cơ rơi vào tình trạng nghèo hơn, khó có khả năng phát triển.

Xu hướng tổn thất và thiệt hại trong tương lai

Biến đổi khí hậu là một trong các tác nhân làm giảm tăng trưởng của Việt Nam. Nếu không có các giải pháp thích ứng hiệu quả, nhiệt độ tăng 1,0oC và 1,5oC có thể gây tổn thất lần lượt khoảng 1,8% GDP và 4,5% GDP; thiệt hại kinh tế khoảng 4,3 tỷ USD trong 10 năm tới. Nếu nước biển dâng và nhiệt độ tăng lên theo kịch bản xấu nhất, ước tính đến năm 2050, Việt Nam có khoảng 3,1 triệu người phải di cư nội địa.

Với kịch bản BĐKH cao, mức độ rủi ro do lũ lụt của khu vực đô thị dự kiến sẽ tăng lên 7%. Ước tính tổn thất về nhà cửa do bão, lũ lụt liên quan đến BĐKH ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2050 là 2,1 tỷ USD, gia tăng 11% so với hiện tại. Gia tăng lượng mưa có thể làm khoảng 20% tổng chiều dài mạng lưới đường quốc lộ, 20% tổng chiều dài mạng lưới đường sắt có nguy cơ xảy ra sạt lở, ngập lụt. Nếu nước biển dâng 100 cm, khoảng 4% hệ thống đường sắt, hơn 9% hệ thống quốc lộ và khoảng 12% hệ thống tỉnh lộ bị ảnh hưởng. Gián đoạn các tuyến đường sắt có thể dẫn đến thiệt hại kinh tế từ 2,3- 2,6 triệu USD/ngày. Nước biển dâng có thể gây thiệt hại 43 tỷ USD cho nông nghiệp.

Biến đổi khí hậu- Xu hướng tổn thất và thiệt hại trong tương lai

Hạn hán làm cạn kiệt nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu, ảnh hưởng cuộc sống sinh kế người dân

Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực chịu tổn thất lớn nhất, tiếp đến là đồng bằng sông Hồng. Khoảng 1,1 triệu tấn thủy sản nuôi trồng, tương đương 935 triệu USD có nguy cơ bị tổn thất do lũ lụt hàng năm. Nếu nước biển dâng từ 75-100 cm thì 78 trong số 286 “sinh cảnh sống tự nhiên trọng yếu” (tương đương 27%), 46 khu bảo tồn (tương đương 33%), 9 khu đa dạng sinh học có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế (23%) và 23 khu đa dạng sinh học khác sẽ bị tác động nghiêm trọng. Hầu hết các khu công nghiệp ven biển bị ngập. Ước tính có tới 35% các công trình xây dựng ở các khu vực ven biển bị xói mòn; 42% khách sạn ven biển nằm gần khu vực sạt lở; và 2/3 hệ thống đê (khoảng trên 2.659 km) có thể sẽ không đáp ứng được tiêu chuẩn an toàn.

Ngoài những thiệt hại về kinh tế xác định được, Việt Nam còn có nguy cơ cao chịu thiệt hại phi kinh tế như thiệt hại về người và suy giảm sức khỏe người dân, cộng đồng hoặc chi phí cơ hội khi khu kinh tế bị di dời, mất đất do xói lở, mất di sản văn hóa và kiến thức địa phương, mất đa dạng sinh học và các dịch vụ hệ sinh thái.

Phương Đông