news

Các phương thức tích tụ, tập trung đất đai

Thứ sáu, 29/10/2021, 15:19 (GMT+7)
logo Tích tụ, tập trung ruộng đất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, thông qua mở rộng quy mô sản xuất phù hợp, áp dụng tiến bộ KHCN và hình thành khu vực chuyên canh theo hướng sản xuất nông nghiệp hiện đại, chuyên môn hóa gắn với thị trường đã được các địa phương thực hiện với nhiều hình thức và cách làm phong phú, sáng tạo, mang lại những kết quả tích cực.

Dồn điền, đổi thửa trong chuyển đổi đất nông nghiệp

Dồn điền, đổi thửa là phương thức tập trung đất thông qua việc chuyển đổi đất nông nghiệp giữa các hộ gia đình, cá nhân trong cùng một địa bàn sản xuất từ các mảnh ruộng nằm phân tán ở các vị trí khác nhau thành các ô, thửa lớn tập trung tại một vị trí. Chính sách chia đất nông nghiệp của Việt Nam giai đoạn trước đây dựa theo nguyên tắc bình đẳng, công bằng, chia đều về diện tích đất, có tốt, có xấu, có gần, có xa, có cao, có thấp đã dẫn đến tình trạng đất nông nghiệp manh mún, quy mô canh tác nông nghiệp của từng hộ gia đình, cá nhân quá nhỏ bé.

Các phương thức tích tụ, tập trung đất đai

Ảnh minh họa

Dồn điền đổi thửa tập trung chủ yếu được triển khai tại đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ. Việc thực hiện dồn điền, đổi thửa, mặc dù diện tích đất của hộ gia đình, cá nhân không tăng nhưng bình quân số thửa đất thì giảm đáng kể (5 - 10 mảnh xuống chỉ còn 2 - 3 mảnh/hộ), giúp tiết kiệm diện tích bờ thửa và gắn với quy hoạch giao thông, thủy lợi của địa phương đã góp phần giảm chi phí và nâng cao hiệu quả sản xuất cho hộ gia đình, cá nhân.

Tuy nhiên, hiện nay, thời gian thực hiện đồn điền, đổi thửa còn kéo dài, có địa phương tổ chức thực hiện thành nhiều đợt, qua nhiều năm chưa xong, có nơi  không thực hiện được do không có sự đồng thuận của người SDĐ với phương án chuyển đổi; số lượng thửa đất sau dồn điền, đổi thửa vẫn còn nhiều; việc đo đạc lại, cấp đổi GCN QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất sau dồn điền đổi thửa còn gặp khó khăn.

Thuê đất nông nghiệp của người đang sử dụng đất

Hình thức này khá phổ biến, xuất phát từ nhu cầu giữa người SDĐ  và người có nhu cầu thuê QSDĐ thông qua hợp đồng thuê đất (hình thức trả tiền thuê do các bên tự thỏa thuận). Đây là hình thức vừa phù hợp với nhu cầu, tâm lý của hộ gia đình, cá nhân có đất nông nghiệp, vừa đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Với phương thức thuê đất của nông dân thì các hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp có nhu cầu sẽ có đất để sản xuất với chi phí thấp hơn nhiều so với phương thức nhận chuyển nhượng QSDĐ. Đây cũng là phương thức bảo đảm cho người nông dân được hưởng lợi từ cho thuê đất một cách an toàn và không phải đối mặt với các rủi ro do người nông dân mất đất, không có đất sản xuất.

Tại một số địa phương đang thực hiện thí điểm chính quyền đứng ra thuê của dân và cho doanh nghiệp thuê lại. Cách làm này phần nào giải quyết được việc doanh nghiệp phải thỏa thuận với nhiều chủ SDĐ nhưng lại không đảm bảo tính pháp lý và các nguồn lực tài chính mà chính quyền địa phương dùng để trả tiền thuê đất cho dân cũng chưa rõ ràng. Có nơi thực hiện Nhà nước làm trung gian để hỗ trợ việc kết nối giữa những nông dân có đất nhỏ lẻ, sản xuất không hiệu quả với doanh nghiệp có nhu cầu thuê đất.

Liên kết, hợp tác với người sử dụng đất

Đây là hình thức tập trung đất đai thông qua việc những người nông dân tự nguyện góp đất cùng tiến hành tổ chức sản xuất, kinh doanh và cùng hưởng lợi thành quả sản xuất. Cũng có thể là người nông dân góp đất, góp vốn, công sức vào hợp tác xã, tổ hợp tác hoặc doanh nghiệp và được hưởng lợi nhuận theo quy chế thỏa thuận, phù hợp với pháp luật của Nhà nước (thông thường theo tỷ lệ góp đất, góp vốn). Trong phương thức này, doanh nghiệp đóng vai trò cốt lõi, doanh nghiệp đứng ra để thỏa thuận với người dân (với sự hỗ trợ của chính quyền) về bao tiêu sản phẩm đầu ra, cách thức tổ chức sản xuất, về tỷ lệ lợi nhuận (hoặc về giá mua lại sản phẩm sau khi thu hoạch)... Doanh nghiệp có trách nhiệm cung cấp (hỗ trợ) về đầu vào như giống cây trồng, phân bón, máy móc thiết bị… kỹ thuật canh tác cho người nông dân. Người nông dân vẫn sản xuất trên ruộng đất của mình nhưng tự hình thành nhóm hộ sản xuất, vùng sản xuất để cùng áp dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật từ giống, canh tác, cơ giới hóa… tập trung ruộng đất để tạo thành các cánh đồng mẫu lớn để cơ giới hóa đồng ruộng.

Đến hết năm 2016, cả nước có khoảng trên 500 nghìn héc-ta thực hiện theo hình thức cánh đồng lớn; trong đó có 337,4 nghìn héc-ta sản xuất lúa canh tác theo mô hình cánh đồng lớn, chủ yếu tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long (259,4 nghìn héc-ta), miền Bắc (78 nghìn héc-ta). Nhiều vùng sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả hàng hóa tập trung quy mô lớn được duy trì, mở rộng: vùng cao su, cà phê, điều, hồ tiêu (Đông Nam Bộ và Tây Nguyên); vùng chè (trung du miền núi phía Bắc và Lâm Đồng); vùng cây ăn quả ở Nam Bộ, thanh long ở Bình Thuận, vải thiều ở Bắc Giang... Tuy nhiên, tỷ lệ diện tích cánh đồng lớn còn thấp, ngay kể cả ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng chỉ đạt 11% tổng diện tích canh tác lúa của vùng. Trong khi đó, việc xây dựng cánh đồng lớn ở Đồng bằng sông Hồng tương đối chậm, với quy mô nhỏ, chủ yếu là trồng các cây trồng hằng năm như lúa, rau, hoa.

Thực tế đã có nhiều mô hình thành công do có sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và người nông dân trong việc cung ứng giống, vật tư phân bón, khoa học công nghệ, tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; đặc biệt là đối với hợp tác xã mà do những người nông dân tự thành lập. Bên cạnh đó, vẫn có mô hình chưa thực sự thành công do người dân phá vỡ hợp đồng, không tuân thủ đầy đủ quy trình kỹ thuật; do doanh nghiệp khó khăn về vốn đầu tư, không bảo đảm được đầu ra sản phẩm như đã cam kết.

Các phương thức tích tụ, tập trung đất đai

Ảnh minh họa

Nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp

Hình thức này diễn ra phổ biến ở các tỉnh phía Nam, nhất là Đồng bằng sông Cửu Long. Các đối tượng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp thường là các hộ gia đình, cá nhân có ít ruộng đất, làm không đủ ăn; có nợ nần nhưng không có khả năng trả; hộ chuyển đổi sang làm nghề khác... Tâm lý các hộ gia đình, cá nhân hiện nay không muốn chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mình, nhất là ở phía Bắc.

Đối với doanh nghiệp nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp thì trở ngại lớn nhất đó là việc thoả thuận và ký hợp đồng chuyển nhượng với từng hộ gia đình, cá nhân khi cần một diện tích lớn để thực hiện dự án. Bên cạnh đó, giá chuyển nhượng đất nông nghiệp thường khá cao so với giá đất do Nhà nước quy định, rất khó để sản xuất nông nghiệp có lãi (giá giao dịch hiện tại ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng khoảng 1 tỷ - 2 tỷ đồng/ha đối với đất lúa, 3 tỷ - 5 tỷ đồng/ha đối với đất trồng cây hàng năm khác). Theo quy định, các trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải làm các đầy đủ các thủ tục đăng ký chuyển quyền sử dụng đất và phải nộp phí, thuế theo quy định. Tuy nhiên, thực tế, có nhiều trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ viết giấy trao tay hoặc có làm chứng của hàng xóm. Đây là hình thức sẽ có tác động rất lớn về mặt kinh tế, xã hội và việc đảm bảo lợi ích lâu dài của người nông dân vì thực hiện theo hình thức này nhưng không giải quyết tốt được vấn đề việc làm và thu nhập ổn định cho người nông dân sẽ dẫn đến tình trạng bất ổn xã hội do người nông dân không còn đất sản xuất, không có việc làm hoặc trở thành người làm thuê trong nông nghiệp.

Nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất

Người có đất góp vốn bằng quyền sử dụng đất để sản xuất kinh doanh: Theo đó, đất đai được định giá để xác định vốn góp trong giá trị doanh nghiệp. Hình thức này chưa phát triển mạnh do nhiều khó khăn và rủi ro. Chẳng hạn, nếu quản trị doanh nghiệp không minh bạch, người nông dân hoặc không được tham gia, hoặc không có năng lực tham gia vào quyết định quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì trong trường hợp doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hoặc doanh nghiệp cố tình gạt người góp đất ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh thông qua tăng vốn điều lệ, người nông dân rất dễ rơi vào tình trạng mất đất. Nguy cơ phá sản, giải thể doanh nghiệp khiến nông dân không mặn mà trong việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong khi chưa thấy rõ lợi ích của việc góp vốn có bảo đảm duy trì được mức sống tối thiểu.

TS. NGUYỄN TIẾN ĐỨC

Bộ Công Thương