
Mô hình thu gom rác thải nhựa “Ngôi nhà xanh” trên đảo Trường Sa - Giải Khuyến khích cuộc thi ảnh “Hành động vì đại dương xanh”
Việt Nam đối mặt với nhiều vấn đề ô nhiễm môi trường biển
Việt Nam có dài hơn 3.260 km, với hơn 3.000 đảo lớn, nhỏ và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vùng biển nước ta được công nhận là vùng giàu tài nguyên thiên nhiên, có vị thế kinh tế, địa chính trị quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Quá trình thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Nhận thức về vị trí, vai trò của biển, đảo đối với phát triển KT-XH, bảo vệ chủ quyền quốc gia được nâng cao; chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được giữ vững; hệ thống kết cấu hạ tầng vùng biển, ven biển, đảo đã được quan tâm đầu tư xây dựng,...
Thời gian qua, dưới áp lực phát triển KT-XH và nhiều nguyên nhân khác nhau đã khiến cho môi trường biển, đảo Việt Nam phải đối mặt với hàng loạt vấn đề như: Suy thoái cảnh quan, hệ sinh thái biển và ven biển; ô nhiễm môi trường biển ven bờ; sự cố môi trường biển; mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng tài nguyên, không gian biển giữa các ngành, các bên có liên quan. Chất thải rắn sinh hoạt ở vùng ven biển Việt Nam ngày càng gia tăng từ các hoạt động KT-XH như nguồn thải công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, du lịch, sinh hoạt, y tế,… gây ô nhiễm trên diện rộng ở các vùng bờ biển.
Theo Báo cáo hiện trạng môi trường biển và hải đảo, đi kèm với sự phát triển đô thị ven biển là sự gia tăng dân số, chủ yếu là sự gia tăng cơ học, các đô thị biển cũng thu hút khách du lịch dẫn đến gia tăng các nguồn thải, gây áp lực lên hạ tầng đô thị, đặc biệt là hệ thống cung cấp điện, nước, hệ thống xử lý chất thải,... Hiện nay, qua khảo sát các tàu du lịch biển trên vịnh Bắc Bộ cho thấy, có tới 77% số tàu thải chất thải trực tiếp ra vịnh, chỉ có 20% số tàu mang chất thải vào bờ để xử lý. Sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa ở các khu vực ven biển và những tác động của con người đối với môi trường được thể hiện rõ qua thống kê lượng nước thải sinh hoạt tại các đô thị ven biển.
Ước tính, tại các khu vực ven biển, lượng nước thải phát sinh khoảng từ 122 -163 triệu m3/ngày, đây là một sức ép lớn đến môi trường biển. Sự gia tăng các nguồn thải từ lục địa, các hoạt động phát triển KT-XH đang đè nặng lên môi trường biển và hải đảo, cùng với sự biến đổi khí hậu, nước biển dâng ngày càng gia tăng, gây nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản, cơ sở hạ tầng, các sự cố môi trường biển để lại hậu quả nặng nề.
Do các hệ sinh thái vùng bờ bị suy giảm, nhất là các hệ sinh thái rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển. Trong 15 năm trở lại đây, khoảng từ 15% đến 20% diện tích các rạn san hô bị mất, tập trung chủ yếu ở các vùng có dân cư sinh sống như Vịnh Hạ Long, các tỉnh, thành phố ven biển miền Trung. Sự suy giảm diện tích, những tổn thương của nhiều rạn san hô đã làm suy giảm đa dạng sinh học và chất lượng môi trường biển; làm mất sinh kế của cộng đồng vùng ven biển, gây thiệt hại không nhỏ cho ngành du lịch biển, thủy sản.
Nguyên nhân của những tồn tại này có thể thấy từ bất cập trong công tác quản lý và pháp luật về bảo vệ TN&MT biển ở Việt Nam, như: Việt Nam đã ký kết các văn bản pháp lý quốc tế về BVMT biển như: Luật Biển UNCLOS 82; Công ước Đa dạng sinh học; Công ước Di sản; Công ước Ramsar; các Công ước MARPOL, SOLAS, COLREG,… nhưng chưa có Luật Bảo vệ TN&MT biển riêng mà chỉ có Luật Biển năm 2012, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 nên các quy định riêng về bảo vệ tài nguyên, môi trường biển chủ yếu được điều tiết chung theo các luật chuyên ngành, như: Luật BVMT, Luật ĐDSH, Luật Thủy sản, Luật Du lịch, Luật Hàng hải, Luật Dầu khí, Luật Khoáng sản, Quyết định về việc phê duyệt Hệ thống các khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và các chương trình BVMT khác.
Thêm vào đó, các bộ, ngành quản lý còn chồng chéo, Bộ TN&MT quản lý các khu RAMSAR, Bộ NN&PTNT quản lý các khu bảo tồn biển và vườn quốc gia, các khu khác chủ yếu do địa phương quản lý. Nguồn lực và kinh phí của các khu bảo vệ biển thường có hạn, cơ chế chính sách còn chưa đồng bộ và thông suốt.
Đề xuất phương pháp bảo vệ môi trường biển và hải đảo
Căn cứ vào thực trạng khai thác, bảo tồn và những yêu cầu cấp bách về việc bảo vệ, phát triển TN&MT biển Việt Nam, một số phương pháp tiếp cận bảo vệ nguồn TN&MT biển trong thời gian tới được đề xuất. Ở tầm vĩ mô, Nhà nước cần sớm xây dựng cơ chế chính sách, pháp luật đồng bộ về bảo vệ TN&MT biển. Một Tổ chức cấp quốc gia thống nhất để quản lý và quy hoạch các khu bảo tồn, bảo vệ TN&MT.
Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về BVMT nói chung và BVMT biển, hảo đảo nói riêng, trong đó, cần có những quy định chi tiết, rõ ràng theo hướng thống nhất, tránh tình trạng chồng chéo, không rõ trách nhiệm; xử phạt thật nặng các trường hợp vi phạm; xây dựng hệ thống quan trắc, đánh giá mức độ ô nhiễm để đưa ra giải pháp xử lý thích đáng;… Ngoài ra, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của các ban, ngành, địa phương trong quá trình xử lý và thực hiện những biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường biển.
Nhà nước cần kiến tạo môi trường chính sách, pháp lý cho nền kinh tế biển phát triển bền vững, kinh tế xanh để khai thác, sử dụng hiệu quả TN&BVMT, phát triển bền vững kinh tế biển; thúc đẩy thu hút và huy động được các nguồn lực xã hội cho phát triển các ngành kinh tế biển mới. Cùng với đó, triển khai thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến biển và hải đảo, phát triển kinh tế biển; đầu tư phát triển hạ tầng kết nối các vùng kinh tế động lực ven biển; khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu, phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực; thực hiện các dự án thí điểm để tiếp cận tất cả các nguồn năng lượng tái tạo biển, nhằm phát huy tối đa tiềm năng về năng lượng tái tạo biển của Việt Nam.
Tăng cường hợp tác về quản lý, giám sát và giải quyết ô nhiễm môi trường các vùng biển; tích cực tham gia các sáng kiến, hành động toàn cầu để giải quyết ô nhiễm nhựa đại dương phù hợp với Nghị quyết của Hội đồng Môi trường Liên hợp quốc để tận dụng các cơ hội từ xu thế thời đại về giảm phát thải khí nhà kính, chuyển đổi năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo.
Bên cạnh đó, tổ chức khắc phục, cải tạo và giảm thiểu ô nhiễm vùng biển cũng rất quan trọng. Nếu chỉ chú trọng vào công tác bảo vệ mà không tính đến chuyện khắc phục các vùng nước biển đang bị ô nhiễm thì tình trạng này sẽ càng trở nên trầm trọng và khó giải quyết về lâu về dài.
Ngày 03/4/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 48/NQ-CP về “Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, BVMT biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050”. Đây là sự cụ thể hóa một bước Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, nhằm phát triển kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hòa giữa các hệ sinh thái tự nhiên; giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển,... Đây là nền tảng, cơ sở để tạo động lực phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn hiện nay. Do đó, chúng ta cần nghiêm túc triển khai thực hiện, kết hợp đa dạng hóa các phương thức bảo vệ để khai thác, sử dụng, bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quý giá, phục vụ phát triển KT-XH bền vững.
MINH TRÍ
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 17 (Kỳ 1 tháng 9) năm 2024