Địa chất, khoáng sản đóng góp vào sự phát triển đất nước

Thứ sáu, 29/7/2022, 10:54 (GMT+7)
logo Trong suốt chặng đường hơn 75 xây dựng và phát triển, ngành Địa chất Việt Nam đã đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ngành đã tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành và từng bước hoàn thiện hệ thống chủ trương, chính sách, pháp luật về địa chất, khoáng sản phù hợp với từng giai đoạn phát triển, góp phần chuyển hóa giá trị địa chất và tài nguyên khoáng sản thành các nguồn lực cho xây dựng và phát triển đất nước. Đặc biệt trong 20 năm qua, ngành Địa chất Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Trong đó, phải kể đến việc thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 1/3/1996 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược tài nguyên khoáng sản và phát triển công nghiệp khai khoáng đến năm 2010 và Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 25/4/2011 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”.

Địa chất, khoáng sản đóng góp vào sự phát triển đất nước

Hoạt động tại thực địa đề án Trung Trung Bộ

Về văn bản pháp luật khoáng sản

Trong giai đoạn từ 2005 - 2021, đã có 2 luật được Quốc hội ban hành: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản (năm 2005) và Luật Khoáng sản (năm 2010). Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 1 nghị quyết về kết quả giám sát và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với BVMT. Để triển khai Luật Khoáng sản năm 2010, trong giai đoạn 2011 - 2021, các bộ, ngành liên quan đã xây dựng, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền 11 nghị định, 7 quyết định và trên 60 thông tư.

Công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản

Đã hoàn thành công tác lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 cho hơn 85.300 km2, đưa tổng diện tích đã lập bản đồ địa chất và đánh giá khoáng sản tỷ lệ 1: 50.000 đạt 89%. Kết quả của công tác lập bản đồ ĐCKS tỷ lệ 1:50.000, ngoài việc hoàn thành lập bản đồ địa chất còn có nhiều phát hiện địa chất mới có giá trị khu vực và hàng trăm điểm quặng, trong đó có hàng chục điểm quặng có triển vọng được chuyển sang giai đoạn đánh giá tiếp theo. Đã khoanh định được một số khu vực có cấu trúc thuận lợi và dấu hiệu khoáng sản triển vọng để đầu tư tiếp theo.

Đã đánh giá tổng thể tiềm năng khoáng sản có tiềm năng lớn urani tại một số khu vực và phần dưới sâu bồn trũng Nông Sơn tại tỉnh Quảng Nam. Hiện đang đánh giá các khoáng sản đá hoa trắng ở Bắc Bộ (gồm cả tỉnh Nghệ An); cát thủy tinh ven biển Trung Bộ. Công tác điều tra địa chất biển đã hoàn thành 150.000 km2 vùng biển độ sâu từ 30 - 100 m nước.

Giai đoạn 2016 đến nay, Tổng cục đã và đang triển khai có hiệu quả 3 đề án chính phủ: (1) Thăm dò quặng urani khu Pà Lừa - Pà Rồng, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam; (2) Điều tra tổng thể về khoáng sản và hoàn thiện nền bản đồ địa chất tỷ lệ 1/50.000 vùng Tây Bắc phục vụ quy hoạch PTBV KT-XH; (3) Đánh giá tổng thể tiềm năng khoáng sản vùng Trung Trung Bộ phục vụ phát triển KT-XH. Kết quả thực hiện các đề án tính đến hết năm 2021 đã cơ bản hoàn thành công tác thực địa các đề án lập bản đồ ĐCKS tỷ lệ 1:50.000, có nhiều phát hiện mới về địa chất có giá trị; phát hiện nhiều điểm khoáng sản, trong đó một số điểm có triển vọng được chuyển sang giai đoạn đánh giá tài nguyên và thăm dò khai thác đạt kết quả cao.

Triển khai thực hiện 3 đề án điều tra địa chất về khoáng sản biển thuộc Quyết định số 798/QĐ-TTg ngày 11/5/2016 ban hành “Kế hoạch thực hiện Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và BVMT biển đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, gồm: “Bay đo từ - trọng lực tỷ lệ 1:250.000 B&HĐ Việt Nam”; “Điều tra, đánh giá đặc điểm cấu trúc địa chất công trình, đề xuất các giải pháp khai thác, sử dụng lãnh thổ phục vụ xây dựng và phát triển hạ tầng dải ven biển Việt Nam” và “Điều tra ĐCKS tai biến địa chất, môi trường địa chất tỷ lệ 1:100.000 vùng biển 0 - 30 m nước từ Hải Phòng đến Nga Sơn (Thanh Hóa)”.

Tiếp tục thực hiện dự án thuộc Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2011, Chỉ thị số 25/CT-CP ngày 31/8/2016 về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách BVMT: “Xây dựng bộ bản đồ môi trường phóng xạ tự nhiên tỷ lệ 1:250.000 cho toàn bộ lãnh thổ Việt Nam giai đoạn I (2011-2015) cho một số khu vực trọng điểm”, và triển khai thực hiện 2 dự án mở mới năm 2018: “Xây dựng bộ bản đồ môi trường phóng xạ tự nhiên tỷ lệ 1:250.000 giai đoạn II (2018-2022) cho các tỉnh biên giới và ven biển phía Bắc”; “Điều tra, đánh giá hiện trạng môi trường phóng xạ tại địa bàn một số tỉnh Trung Trung Bộ và đề xuất các giải pháp phòng ngừa phục vụ phát triển KT-XH bền vững”.

Kết quả công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản đã phát hiện thêm nhiều vùng, điểm mỏ có triển vọng, trong đó, một số loại khoáng sản quan trọng, chiến lược như: Titan, bauxit, đất hiếm, cát trắng,... đã được đánh giá; một số khoáng sản có quy mô lớn như: Than nâu Đồng bằng sông Hồng, quặng urani ở Quảng Nam, quặng bô xít ở Tây Nguyên, quặng titan sa khoáng ven biển từ Ninh Thuận đến Bắc Bà Rịa - Vũng Tàu,... góp phần gia tăng tài nguyên, trữ lượng khoáng sản để dự trữ quốc gia; phục vụ quy hoạch thăm dò, khai thác cho ngành công nghiệp khai khoáng. Ngoài ra, kết quả của công tác này còn được sử dụng trong nhiều ngành kinh tế khác như: Xây dựng, Công Thương, Thủy lợi, GTVT, NN&PTNT, KTTV, Quốc phòng, Du lịch,…

Địa chất, khoáng sản đóng góp vào sự phát triển đất nước

Ông Nguyễn Hồng Thanh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục ĐC&KS khảo sát tại thực địa

Quản lý nhà nước về khoáng sản

Công tác cấp phép hoạt động khoáng sản tuân thủ quy định của pháp luật về khoáng sản và ngày càng chặt chẽ, khai thác gắn với địa chỉ sử dụng, chế biến khoáng sản, BVMT, cảnh quan du lịch, bảo tồn thiên nhiên, di sản địa chất và QP - AN.

Các Bộ: Công Thương, Xây dựng lập các quy hoạch khoáng sản trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (hoặc phê duyệt theo ủy quyền); theo đó, trong giai đoạn từ 2005 - 2021 đã có 2 quy hoạch điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản được phê duyệt; phê duyệt, điều chỉnh, bổ sung cho 17 quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng khoáng sản cho hơn 40 loại khoáng sản của cả nước. Quy hoạch khoáng sản được phê duyệt là cơ sở để quản lý tài nguyên khoáng sản hiệu quả, BVMT.

Bên cạnh đó, các chính sách mới đã triển khai như: chính sách thu hồi chi phí điều tra, thăm dò khoáng sản do nhà nước đầu tư, chính sách thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, chính sách đấu giá quyền khai thác khoáng sản,... được thực hiện đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác QLNN về hoạt động khoáng sản, sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản. Các chính sách này đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển KT-XH chung cả nước, trong đó có sự phát triển KT-XH và bảo đảm QP-AN vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ.

Về công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản

Tổng cục luôn phối hợp tốt với các bộ, ngành, nhất là đối với các cấp chính quyền địa phương trong công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản, ngăn chặn hoạt động khai thác khoáng sản trái phép, đặc biệt công tác tăng cường hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật về khoáng sản theo Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 30/3/2015. Theo đó, Chủ tịch UBND cấp tỉnh liên quan chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ nếu để xảy ra tình trạng khai thác khoáng sản trái phép trên địa bàn.

Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản theo mô hình “thanh tra khu vực” đạt hiệu quả đáng kể. Nhờ đó, số doanh nghiệp vi phạm pháp luật về khoáng sản đã giảm; ý thức chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản được nâng cao, nhất là trong công tác thống kê, kiểm kê trữ lượng khoáng sản; việc thực hiện trách nhiệm xã hội với địa phương và người dân nơi có khoáng sản khai thác.

Công tác thanh tra, kiểm tra môi trường trong lĩnh vực khoáng sản tiếp tục được đẩy mạnh nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLNN về khoáng sản gắn với BVMT. Việc kiểm tra, đôn đốc, kiến nghị xử lý vi phạm thực hiện nghĩa vụ BVMT trong khai thác khoáng sản được phối hợp thực hiện trong quá trình thanh tra, kiểm tra chuyên ngành về khoáng sản.

Công tác kinh tế địa chất và khoáng sản

Thực hiện Luật Khoáng sản năm 2010, lần đầu tiên quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được triển khai từ năm 2014. Đến hết năm 2020, tổng số tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đã phê duyệt khoảng trên 52.000 tỷ đồng, trong đó, thuộc thẩm quyền cấp phép của trung ương là trên 37.000 tỷ đồng; thuộc thẩm quyền cấp phép của địa phương khoảng 15.00 tỷ đồng. Theo đó, đã thu vào NSNN gần 30.000 tỷ đồng, trung bình hàng năm NSNN thu từ 4.300 - 4.500 tỷ đồng từ tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Cùng với quy định về thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, từ năm 2012 đến nay, Tổng cục đã thống kê và trình Bộ TN&MT phê duyệt để thu tiền sử dụng số liệu thông tin kết quả điều tra, thăm dò khoáng sản phải hoàn trả do Nhà nước đã đầu tư đối với các mỏ đang khai thác, tổng số tiền thu được trên 2.500 tỷ đồng.

Công tác cấp phép thông qua hình thức đấu giá quyền khai thác khoáng sản được đẩy mạnh từ năm 2015 đến nay. Theo đó, đến hết 2020, có khoảng 830 khu vực mỏ khoáng sản đã được phê duyệt Kế hoạch đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Trong đó, đã tổ chức đấu giá thành công 384 khu vực khoáng sản giá trúng đấu giá tăng từ 20 - 135% so với giá khởi điểm, góp phần đưa các chính sách mới về tài chính trong hoạt động khoáng sản đi vào cuộc sống, đáp ứng cơ bản nhu cầu nguyên liệu khoáng cho các ngành kinh tế để phát triển KT-XH đất nước.

Việc thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và thu tiền sử dụng số liệu thông tin về kết quả điều tra, thăm dò khoáng sản phải hoàn trả do Nhà nước đã đầu tư đã nâng cao hiệu quả của khai thác khoáng sản, nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp khai thác khoáng sản đối với Nhà nước và địa phương có khoáng sản được khai thác; tăng cường ý thức khai thác tối đa, sử dụng hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên khoáng sản.

Bên cạnh đó, đã khắc phục được cơ bản tình trạng “đầu cơ mỏ khoáng sản” như trước đây, hạn chế tình trạng các doanh nghiệp khai thác nhỏ lẻ, manh mún, thiếu năng lực tài chính, tổ chức các hoạt động khai thác, đầu tư kém hiệu quả; góp phần nâng cao chất lượng, năng suất trong khai thác, sử dụng nguồn vật lực của đất nước.

Công tác cấp phép thông qua đấu giá quyền khai thác khoáng sản đã được đẩy mạnh triển khai đồng bộ cả ở trung ương và địa phương. Kết quả qua các cuộc đấu giá, mức giá trúng đấu giá đều tăng từ 1,5 - 2,3 lần mức giá khởi điểm. Đấu giá quyền khai thác khoáng sản là bước tiến quan trọng trong nhận thức và triển khai các quy định của pháp luật về khoáng sản, tạo sự công khai, minh bạch trong cấp phép hoạt động khoáng sản để doanh nghiệp có năng lực về vốn, công nghệ, thiết bị đầu tư vào lĩnh vực khoáng sản và bước đầu tiếp cận với cơ chế thị trường trong hoạt động khoáng sản.

Ngoài ra, để xã hội hóa nguồn vốn cho công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản từ năm 2014 đến nay, Tổng cục đã triển khai Thông tư liên tịch số 61/2014/TTLT-BTNMT-BKHĐT-BTC hướng dẫn thủ tục góp vốn, quản lý vốn góp của các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư điều tra cơ bản ĐC&KS với 25 đề án điều do tổ chức, cá nhân góp vốn đầu tư với tổng kinh phí hơn 93 tỷ đồng. Kết quả như sau: 3 đề án đánh giá khoáng sản sắt đang đề xuất đưa vào quy hoạch thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản; 15 đề án vàng gốc đã phê duyệt báo cáo; 2 đề án đánh giá quặng chì - kẽm, trong đó 1 khu vực có quy mô lớn; 1 khu vực có quy mô quặng chì - kẽm và wolfram nhỏ; 5 đề án về khoáng chất công nghiệp (thạch anh, talc, quarzit, felspat) và đá cảnh.

Ngày 10/2/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đã xác định tài nguyên địa chất, khoáng sản là nguồn lực quan trọng để phát triển KT-XH của đất nước, vừa là nguồn lực lâu dài của quốc gia, do đó cần được quy hoạch, điều tra, thăm dò đầy đủ; được quản lý tập trung, thống nhất; khai thác, sử dụng bền vững, hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, gắn với nhu cầu phát triển của nền kinh tế, BVMT, hướng tới mục tiêu đạt mức trung hòa cac-bon. Tóm lại, qua những kết quả nêu trên, có thể nhận thấy, trong suốt chặng đường hơn 75 xây dựng và phát triển, đặc biệt là 20 năm gần đây, ngành ĐC&KS Việt Nam đã và đang đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển KT-XH của đất nước.

Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam