Đổi mới toàn diện công tác thanh tra, kiểm tra

Chủ nhật, 16/2/2025, 08:40 (GMT+7)
logo Năm 2024, Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục đổi mới toàn diện về công tác thanh tra, kiểm tra, theo đó, đã đạt những kết quả tích cực, trong đó tập trung chỉ đạo và chủ trì các cuộc thanh tra chuyên đề diện rộng kết hợp nhiều lĩnh vực. Bộ chú trọng ngay từ khâu xây dựng kế hoạch, lựa chọn vấn đề thanh tra, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm. Các cuộc thanh tra chuyển từ nhỏ lẻ sang các cuộc thanh tra chuyên đề có sự tham gia phối hợp giữa Bộ với các bộ, ngành Trung ương và các địa phương. Công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành toàn diện trên 9 lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ.

Đổi mới toàn diện công tác thanh tra, kiểm tra

Thứ trưởng Bộ TN&MT Nguyễn Thị Phương Hoa phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2024, và triển khai nhiệm vụ năm 2025 của Thanh tra Bộ TN&MT

Công tác xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra

Năm 2024, công tác thanh tra, kiểm tra của Bộ được xây dựng tập trung vào một số nội dung chính như: Thanh tra, kiểm tra các dự án không đưa đất vào sử dụng hoặc chậm tiến độ sử dụng đất (SDĐ); việc quản lý, sử dụng đất rừng, đất nông lâm trường, SDĐ sai mục đích, chuyển mục đích SDĐ rừng trái quy định của pháp luật.

Thanh tra, kiểm tra các cơ sở có lưu lượng nước thải từ 200 m3/ngày đêm trở lên và các cơ sở sản xuất nằm ngoài khu công nghiệp có lưu lượng nước thải từ 500 m3/ngày đêm trở lên. Việc vận hành mùa kiệt, thực hiện duy trì dòng chảy tối thiểu của các hồ chứa thủy điện, hồ có nguy cơ cạn kiệt nguồn nước, ô nhiễm môi trường. 

Các dự án đầu tư theo yêu cầu của quyết định phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường trong giai đoạn thi công, xây dựng trước khi vận hành dự án hoặc trước khi được Bộ cấp giấy phép môi trường; công tác thẩm định, phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư, phương án cải tạo, phục hồi môi trường của các dự án khai thác khoáng sản của các địa phương.

Xác định sản lượng khoáng sản khai thác thực tế đối với một số loại khoáng sản và việc chấp hành pháp luật về khoáng sản đối với các tổ chức hoạt động khoáng sản có thu hồi khoáng sản đi kèm; việc chấp hành pháp luật về trong hoạt động khai thác khoáng sản; việc đóng cửa mỏ, thực hiện cải tạo, phục hồi môi trường sau khi giấy phép khai thác khoáng sản hết hạn.

Kế hoạch thanh tra, kiểm tra của các Sở tập trung vào các nội dung: Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định về thủ tục hành chính đối với việc giao đất, cho thuê đất, cấp GCN QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất cho các tổ chức, cá nhân và việc chấp hành các quy định của pháp luật về khoáng sản, BVMT và TNN,…

Tổ chức tập huấn nội dung, cách thức cụ thể trước khi triển khai công tác thanh tra, kiểm tra, hàng năm trên phạm vi cả nước và thanh tra chuyên đề diện rộng. Công tác thanh tra, kiểm tra được chú trọng từ khâu chuẩn bị kỹ lưỡng, tập trung vào công tác nội nghiệp nhằm rút ngắn thời gian nhưng vẫn đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong thanh tra, kiểm tra. 

Đối với các địa phương cũng đã có đổi mới trong việc xây dựng kế hoạch thanh tra và tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch thanh tra, có sự phối hợp tích cực hơn với Bộ trong việc trao đổi, chia sẻ thông tin, giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn, nhất là về giải quyết các vụ việc khiếu nại, tranh chấp đất đai phức tạp, kéo dài tại cơ sở.

Công tác xử lý vi phạm hành chính đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm được Bộ cũng như các địa phương quan tâm và thực hiện nghiêm túc, theo đó các vụ việc vi phạm cơ bản đã được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng thẩm quyền và trình tự, thủ tục theo quy định đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác QLNN về TNMT.

Công tác triển khai thực hiện thanh tra, kiểm tra

Căn cứ Kế hoạch thanh tra, kiểm tra được ban hành, các đơn vị trực thuộc Bộ và các Sở đã tổ chức triển khai thực hiện, theo báo cáo tổng hợp của các đơn vị về cơ bản hoàn thành khối lượng nhiệm vụ trong Kế hoạch được phê duyệt, bên cạnh đó, có nhiều đơn vị đã tổ chức được các cuộc thanh tra, kiểm tra đột xuất và cử cán bộ tham gia các đoàn công tác liên ngành khi có yêu cầu. 

Việc triển khai Kế hoạch được các đơn vị trực thuộc Bộ và Sở tổ chức thực hiện đúng thời gian, nội dung, đối tượng đã được phê duyệt. Giữa các đơn vị trực thuộc Bộ và địa phương đã có sự phối hợp về lực lượng cũng như trao đổi về chuyên môn, nghiệp vụ trong quá trình thực hiện Kế hoạch, các đoàn thanh tra do Bộ chủ trì có sự tham gia của cán bộ các Sở, nhờ đó việc nắm bắt thông tin, tháo gỡ vướng mắc và nâng cao trình độ cho các cán bộ trong ngành đã được thực hiện thuận lợi. 

Năm 2024, toàn Ngành (theo số liệu tổng hợp của các đơn vị trực thuộc Bộ và của 23/63 Sở đã có báo cáo) đã triển khai được 591 cuộc thanh tra, kiểm tra đối với 1.682 tổ chức, cá nhân; trong đó có 29 cuộc thanh tra, kiểm tra hành chính và 562 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành. Qua thanh tra đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với 540 tổ chức, cá nhân với số tiền 113.921 triệu đồng; kiến nghị truy thu nộp NSNN 6.749 triệu đồng, kết quả cụ thể trong từng lĩnh vực như sau: Toàn ngành đã triển khai được 540 cuộc thanh tra, kiểm tra đối với 1.630 tổ chức, cá nhân; trong đó có 29 cuộc thanh tra, kiểm tra hành chính và 511 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành. Qua thanh tra đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính 632 tổ chức, cá nhân với số tiền 111.416 triệu đồng (giảm so với năm 2023 là 33.569 triệu đồng). 

Bộ đã thực hiện 153 cuộc thanh tra, kiểm tra đối với 804 tổ chức, cá nhân (trong đó: 1 cuộc thanh tra hành chính; 8 cuộc thanh tra, 111 cuộc kiểm tra theo kế hoạch và 33 cuộc đột xuất). Qua thanh tra, kiểm tra đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với 227 các tổ chức, cá nhân, số tiền thu về ngân sách nhà nước với số tiền 62.795 triệu đồng.

Các Sở đã thực hiện 387 cuộc thanh tra, kiểm tra đối với 826 tổ chức, cá nhân (trong đó, 28 cuộc thanh tra hành chính; 213 cuộc thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch; 174 cuộc kiểm tra đột xuất).

 Qua thanh tra, kiểm tra đã phát hiện các vi phạm chủ yếu tập trung vào các nội dung: SDĐ không đúng mục đích; không SDĐ hoặc tiến độ thực hiện chậm; lấn chiếm đất đai; chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất; chưa thực hiện thủ tục hành chính về đất đai,... Căn cứ kết quả thanh tra, kiểm tra, các chức danh có thẩm quyền đã xử phạt vi phạm hành chính đối 405 tổ chức và cá nhân với tổng số tiền là: 48.621 triệu đồng, kiến nghị truy thu 4.798 triệu đồng.

Qua kiểm tra cho thấy, nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã chấp hành nghiêm túc việc nộp phạt theo quyết định xử phạt vi phạm hành chính và thực hiện các kiến nghị của cơ quan QLNN tại kết luận thanh tra, bên cạnh đó, đối với những nội dung chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa dứt điểm đã được các cơ quan thẩm quyền làm rõ và đôn đốc, giám sát thực hiện. 

Việc xây dựng Kế hoạch của Bộ và các Sở đã tuân thủ theo quy định của Luật Thanh tra, bám sát hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ và yêu cầu công tác quản lý của ngành. Nội dung thanh tra đã có trọng tâm, trọng điểm, đã tập trung vào một số vấn đề nổi cộm về TN&MT. Các địa phương đã chủ động điều chỉnh Kế hoạch của mình để tránh chồng chéo về đối tượng thanh tra, kiểm tra so với Kế hoạch của Bộ, đồng thời Bộ cũng chủ động rà soát để đưa ra khỏi danh sách những đối tượng thanh tra không còn phù hợp theo đề nghị của địa phương. Tuy nhiên quá trình xây dựng Kế hoạch vẫn còn tồn tại như sau:

Việc triển khai Kế hoạch được các đơn vị trực thuộc Bộ và Sở tổ chức thực hiện đúng thời gian, nội dung, đối tượng đã được phê duyệt. Giữa các đơn vị trực thuộc Bộ và địa phương đã có sự phối hợp về lực lượng cũng như trao đổi về chuyên môn, nghiệp vụ trong quá trình thực hiện Kế hoạch, các đoàn thanh tra do Bộ chủ trì có sự tham gia của cán bộ các Sở, nhờ đó việc nắm bắt thông tin, tháo gỡ vướng mắc và nâng cao trình độ cho các cán bộ trong ngành đã được thực hiện thuận lợi. 

Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo

Năm 2024, toàn Ngành đã tiếp 1.419 lượt người với 1.602 người, trong đó: Bộ TN&MT đã tiếp 296 lượt với 445 người (số vụ việc tiếp lần đầu: 92 lượt; tiếp nhiều lần: 204; số đoàn đông người được tiếp: 26 lượt đoàn (135 người), số tiếp lần đầu 10 lượt đoàn, tiếp nhiều lần 16 lượt đoàn).

Các Sở đã tiếp 1.123 lượt với 1.157 người (số vụ việc được tiếp lần đầu: 693 lượt; tiếp nhiều lần: 430; số đoàn đông người được tiếp: 16 lượt đoàn (134 người), số tiếp lần đầu 16 lượt đoàn).

Ngành đã nhận: 8.905 đơn (Kỳ trước chuyển sang: 521 đơn; tiếp nhận trong kỳ: 8.384 đơn; số đơn đã xử lý/ Tổng số đơn tiếp nhận; số đơn, số vụ việc đủ điều kiện xử lý: 5.064 đơn). Trong đó: Tổng số đơn Bộ đã nhận: 3.751 đơn (kỳ trước chuyển sang: 96 đơn; tiếp nhận trong kỳ: 3.655 đơn; số đơn, số vụ việc đủ điều kiện xử lý: 1.508 đơn).

Các Sở: 5.567 đơn (Kỳ trước chuyển sang: 73 đơn; tiếp nhận trong kỳ: 5.494 đơn; số đơn, số vụ việc đủ điều kiện xử lý: 3.674 đơn).

Trong năm 2024, số vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ là 130 vụ việc (có 87 vụ việc năm 2023 chuyển sang), trong đó có 58 vụ việc cùng 1 nội dung. Tổng số đơn, số vụ việc đã giải quyết/tổng số đơn, số vụ việc phải giải quyết và tỷ lệ đã giải quyết 50/139 vụ việc. Tổng hợp quyết định giải quyết khiếu nại đã trả lại quyền lợi cho cá nhân: 6 vụ việc. Đề nghị địa phương giải quyết lại: 03 vụ việc

Trong năm 2024, số vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Sở/ngành là 182 vụ việc (có 26 vụ việc năm 2023 chuyển sang). Tổng số đơn, số vụ việc đã giải quyết/tổng số đơn, số vụ việc phải giải quyết và tỷ lệ đã giải quyết 103/182 vụ việc. Tổng hợp quyết định giải quyết khiếu nại đã trả lại quyền lợi cho cá nhân: 13 vụ việc.

Trong năm 2024, Bộ đã tiếp nhận 294 thông tin. Trong đó, đã hướng dẫn trực tiếp 223 thông tin, còn lại 71 thông tin đủ điều kiện xử lý, Bộ đã có 71 văn bản yêu cầu các địa phương kiểm tra, xử lý theo quy định và báo cáo kết quả về Bộ TN&MT.

Việc tiếp công dân được thực hiện nghiêm túc theo quy định của pháp luật về tiếp công dân. Bộ trưởng và Giám đốc các Sở TN&MT đã tiếp dân định kỳ theo quy định; bố trí công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có chuyên môn nghiệp vụ để tiếp công dân thường xuyên, các trường hợp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đều được cán bộ tiếp dân giải thích, hướng dẫn, xử lý, giải quyết kịp thời, không để phát sinh “điểm nóng” làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan, đơn vị. 

 Công tác xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai luôn được quan tâm, chỉ đạo sâu sát từ đó đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân đã được phân loại, xử lý kịp thời. Phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của ngành, địa phương trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, đảm bảo giải quyết kịp thời, hiệu quả, hạn chế phát sinh vụ việc đông người, phức tạp mới, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội.

Năm 2025, tiếp tục thanh tra toàn diện

Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành về đất đai, BVMT, khoáng sản, TNN, đo đạc bản đồ, biển và hải đảo đối với UBND các cấp tỉnh và cấp huyện. 

Thanh tra về việc chấp hành pháp luật đất đai, tập trung vào: Công tác lập và thực hiện QH, KHSDĐ cấp tỉnh, cấp huyện; công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất,…; kiểm tra về việc chấp hành pháp luật đất đai: công tác lập và thực hiện QH, KHSDĐ cấp tỉnh, cấp huyện; bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; đấu giá quyền SDĐ; giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích SDĐ.

Thanh tra việc chấp hành pháp luật về BVMT đối với các tổ chức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BVMT đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về khoáng sản trong hoạt động khoáng sản (kiểm tra định kỳ) đối với các tổ chức; kiểm tra công tác tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản; đấu giá quyền khai thác khoáng sản; xác định chi phí đánh giá tiềm năng khoáng sản, chi phí thăm dò khoáng sản phải hoàn trả do Nhà nước đã đầu tư đối với Sở TN&MT một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Kiểm tra việc chấp hành quy định của pháp luật về TN, MT biển và hải đảo; kiểm tra công tác giao khu vực biển, thiết lập và quản lý hành lang bảo vệ bờ biển, lập hồ sơ tài nguyên hải đảo; kiểm tra công tác giao khu vực biển, thiết lập và quản lý hành lang bảo vệ bờ biển; kiểm tra tổ chức đã được giao khu vực biển và việc sử dụng khu vực biển, BVMT biển; kiểm tra về tác động môi trường trong quá trình nhận chìm ở biển đối với các tổ chức được Bộ cấp giấy phép.

Kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về TNN, ĐĐ&BĐ, KTTV, BĐKH đối với một số tổ chức tại một số tỉnh, thành phố, các tổ chức.

Bên cạnh đó, tập trung thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu như sau: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 623/NQ-UBTVQH15 về tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tiếp tục đôn đốc, kiểm tra, rà soát, giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng, phức tạp, kéo dài, các vụ việc khiếu kiện tại các cơ quan Trung ương theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và kế hoạch của Thanh tra Chính phủ.

Thực hiện nghiêm Luật tiếp công dân và Nghị định số 64/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiếp công dân. Tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân kịp thời, có hiệu quả. Duy trì trực tiếp nhận thông tin phản ánh qua đường dây nóng; tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc Thủ tướng Chính phủ giao và các vụ việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm.

QUANG ANH
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 1+2 năm 2025