news

Gánh trên vai hàng chục nghìn nguồn gen - TS. Phạm Hùng Cương nói về khó khăn, kỳ vọng và hướng đột phá

Thứ bảy, 13/12/2025, 05:48 (GMT+7)
logo Từ những kho hạt giống bảo quản ở nhiệt độ âm sâu đến các cơ sở dữ liệu di truyền ngày càng phức tạp, công tác bảo tồn nguồn gen cây trồng tại Việt Nam đang đặt lên vai Trung tâm Tài nguyên thực vật (PRC) một trọng trách đặc biệt: bảo vệ vốn di truyền, tài sản quốc gia - nền tảng của an ninh lương thực, thích ứng biến đổi khí hậu và chiến lược phát triển giống cây trồng dài hạn. Ở Kỳ 2 của tuyến bài, TS. Phạm Hùng Cương - Phó Giám đốc PRC chia sẻ thẳng thắn về những áp lực phía sau cánh cửa phòng lưu giữ gen, những kỳ vọng thực tế và hướng đột phá cần thiết để biến tài sản di truyền quốc gia thành động lực phát triển nông nghiệp hiện đại.
z7248291768989_92ca04bcd49895da18f8c2110b45adc1_1765424460.webp
Nhóm chuyên môn của PRC tiến hành thu thập và chuẩn hóa dữ liệu kiểu hình các mẫu nguồn gen lúa, phục vụ xây dựng cơ sở dữ liệu nguồn gen.

PV: Thưa TS. Phạm Hùng Cương, để quản lý hàng chục nghìn nguồn gen không phải nhiệm vụ đơn giản. Ông cảm nhận thế nào về trọng trách này?

TS. Phạm Hùng Cương:

Đây là một trọng trách rất lớn, đồng thời cũng là niềm tự hào của chúng tôi là người “giữ lửa cho tương lai”. Mỗi mẫu nguồn gen đại diện cho một phần vốn di truyền của quốc gia, có thể được sử dụng cho chọn giống, phục tráng giống bản địa, nghiên cứu cơ bản hoặc phát triển sản phẩm nông nghiệp đặc thù trong tương lai.

Điều quan trọng là PRC không chỉ “lưu giữ” mà phải duy trì tính sống, tính toàn vẹn và khả năng khai thác của từng nguồn gen. Điều đó đồng nghĩa với việc phải đánh giá, mô tả, tái sinh, bổ sung dữ liệu và theo dõi tình trạng mẫu một cách thường xuyên. Khối lượng nguồn gen càng lớn thì yêu cầu về trách nhiệm khoa học, quản trị và độ chính xác càng cao và đó là áp lực thường trực đối với đội ngũ cán bộ PRC.

PV: Khó khăn lớn nhất khi quản lý khối lượng nguồn gen đồ sộ như vậy là gì, thưa ông?

TS. Phạm Hùng Cương:

Có thể tóm lược ba nhóm khó khăn cốt lõi.

Thứ nhất là kinh phí. Bảo tồn nguồn gen là hoạt động dài hạn, liên tục và có chi phí lớn. Từ bảo quản hạt giống trong kho lạnh, bảo tồn in vitro, duy trì bảo tồn đồng ruộng đến đánh giá kiểu hình, phân tích di truyền – tất cả đều đòi hỏi đầu tư bền vững. Riêng các phân tích di truyền bằng chỉ thị phân tử hoặc giải trình tự đã tiêu tốn chi phí đáng kể cho mỗi mẫu, và điều đó trở thành thách thức rất lớn khi số lượng nguồn gen lên tới hàng chục nghìn.

Thứ hai là nhân lực. PRC có đội ngũ cán bộ dày dạn kinh nghiệm về bảo tồn và chọn giống theo phương pháp truyền thống. Tuy nhiên, bảo tồn trong kỷ nguyên dữ liệu đòi hỏi nguồn nhân lực đa năng giữa sinh học, công nghệ thông tin, tin sinh học và phân tích dữ liệu lớn. Nhân lực cho các lĩnh vực như bioinformatics, phân tích kiểu gen – kiểu hình, mô hình hóa và AI hiện vẫn còn thiếu trầm trọng.

Thứ ba là các vấn đề về cơ chế và chính sách. Một số quy định hiện hành liên quan đến quản lý tài chính, mua sắm trang thiết bị và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học còn thiếu tính linh hoạt, chưa theo kịp yêu cầu về tiến độ và đặc thù kỹ thuật của nghiên cứu hiện đại, đặc biệt trong các lĩnh vực dữ liệu lớn và công nghệ sinh học phân tử. Những hạn chế này ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ, phạm vi và hiệu quả của các hoạt động đánh giá, chuẩn hóa và số hóa nguồn gen.

Bên cạnh đó, việc thực hiện cơ chế tự chủ tại các đơn vị sự nghiệp khoa học như Trung tâm Tài nguyên thực vật, trong điều kiện kinh phí chi thường xuyên cho đội ngũ viên chức khoa học chưa được bảo đảm đầy đủ từ ngân sách nhà nước, đã tạo ra không ít khó khăn trong việc thu hút và giữ chân nhân lực trẻ. Điều này đặt ra yêu cầu cần có các chính sách phù hợp hơn để bảo đảm tính ổn định và phát triển bền vững của đội ngũ làm công tác bảo tồn nguồn gen.

PV: Trong điều kiện còn nhiều hạn chế như vậy, PRC làm thế nào để bảo đảm chất lượng bảo tồn và tránh suy giảm nguồn gen thưa ông?

TS. Phạm Hùng Cương:

Chúng tôi áp dụng đồng thời nhiều giải pháp kỹ thuật và quản lý.

Trước hết, là duy trì nghiêm ngặt các tiêu chuẩn bảo tồn chuyển chỗ đối với ngân hàng gen hạt giống, bao gồm kiểm soát nhiệt độ, độ ẩm, khối lượng, kiểm tra sức nảy mầm định kỳ và tái sinh mẫu kịp thời.

Thứ hai, mở rộng bảo tồn in vitro đối với các loài khó bảo quản bằng hạt hoặc có nguy cơ thoái hóa nhanh.

Thứ ba, đánh giá định kỳ kiểu hình và sinh thái, kết hợp kiểm kê và đánh giá rủi ro để phát hiện sớm nguy cơ xuống cấp của nguồn gen.

Song song với đó, PRC từng bước chuẩn hóa quy trình quản lý dữ liệu nguồn gen nhằm bảo đảm mọi thông tin liên quan đến mẫu gen đều được cập nhật, truy xuất và sử dụng hiệu quả.

PV: Trong giai đoạn 2026-2030, PRC đặt ra những kỳ vọng chiến lược nào thưa ông?

TS. Phạm Hùng Cương:

Chúng tôi kỳ vọng ba hướng phát triển trọng tâm.

Thứ nhất, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu nguồn gen chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế, có khả năng liên thông với hệ thống dữ liệu quốc gia và quốc tế. Cơ sở dữ liệu này không chỉ là kho lưu trữ mà phải phục vụ sàng lọc, phân tích và khai thác nguồn gen cho nghiên cứu và chọn giống.

Thứ hai, tăng cường đầu tư công nghệ sinh học phân tử, từ DNA barcode, chỉ thị phân tử, giải trình tự đến phân tích dữ liệu di truyền và ứng dụng AI trong dự đoán tính trạng. Đây là nền tảng để rút ngắn chu kỳ chọn giống và phát hiện gen quý.

Thứ ba, hình thành hệ sinh thái bảo tồn, nghiên cứu, doanh nghiệp, trong đó nguồn gen được bảo tồn an toàn nhưng đồng thời được chuyển hóa thành giống cây trồng, sản phẩm nông nghiệp và giá trị kinh tế cụ thể.

PV: Trong các hướng phát triển tương lai, đâu là đột phá lớn nhất mà ông cho rằng PRC có thể tạo ra?

TS. Phạm Hùng Cương:

Đột phá lớn nhất chính là biến nguồn gen thành giá trị kinh tế trên cơ sở bảo tồn bền vững và khoa học. Khi dữ liệu được chuẩn hóa và công nghệ được ứng dụng hiệu quả, chúng ta có thể sàng lọc nhanh các nguồn gen chịu hạn, chịu mặn, kháng bệnh; phục tráng giống đặc sản địa phương; phát triển cây dược liệu bản địa; và cung cấp vật liệu đầu vào cho các chương trình chọn giống chiến lược. Ở góc độ đó, nguồn gen không còn là “kho dự trữ thụ động”, mà trở thành một tài sản chiến lược của nông nghiệp.

PV: Xin ông cho biết, PRC kỳ vọng gì từ phía Bộ, Nhà nước và hệ thống chính sách khoa học - công nghệ?

TS. Phạm Hùng Cương:

Chúng tôi mong muốn có cơ chế ổn định và dài hạn cho bảo tồn nguồn gen – một lĩnh vực không thể đo hiệu quả trong ngắn hạn. Đồng thời, cần chính sách thông thoáng hơn cho nghiên cứu dữ liệu và công nghệ sinh học, đầu tư hạ tầng phòng thí nghiệm hiện đại và cơ chế thu hút, đãi ngộ nhân lực trẻ chất lượng cao. Nếu các điều kiện này được đáp ứng, nguồn gen cây trồng Việt Nam không chỉ được bảo vệ an toàn mà còn được khai thác hiệu quả, đóng vai trò trụ cột cho các chiến lược nông nghiệp mới.

z7248291768842_48d8ab3e4ee178a72aa78d65d3729001_1765424538.webp
Đại diện PRC và các đối tác thảo luận về chiến lược số hóa, đánh giá và phát triển nguồn gen cây trồng trong khuôn khổ chương trình hợp tác chuyên môn.

Bảo tồn nguồn gen không chỉ là gìn giữ hạt giống hay mẫu vật, mà là bảo vệ tương lai của nông nghiệp và an ninh lương thực quốc gia. Qua những chia sẻ thẳng thắn của TS. Phạm Hùng Cương, có thể thấy rõ thách thức song hành với tiềm năng to lớn của công tác bảo tồn trong kỷ nguyên dữ liệu và công nghệ.

Khi nguồn gen được bảo tồn đúng chuẩn, được phân tích sâu bằng khoa học hiện đại và được kết nối với sản xuất, chúng sẽ trở thành chìa khóa để Việt Nam phát triển giống cây trồng chủ lực, thích ứng biến đổi khí hậu và nâng cao giá trị ngành Nông nghiệp và Môi trường.

Hồng Minh (thực hiện)