Hoàn thiện chính sách pháp luật đất đai phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Thứ năm, 11/8/2022, 19:01 (GMT+7)
logo Việc phân bổ, sử dụng đất đai hợp lý, tiết kiệm hiệu quả cao; bảo đảm lợi ích trước mắt và lâu dài, bảo vệ môi trường sinh thái, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước luôn là vấn đề xuyên suốt trong hoàn thiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời cũng là yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước về đất đai. Trong mỗi một giai đoạn lịch sử, trước yêu cầu bảo vệ và phát triển của đất nước, các chủ trương, chính sách về đất đai của Đảng và Nhà nước liên tục được đổi mới từ đó đã dần trở thành nguồn lực, nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Hoàn thiện chính sách pháp luật đất đai phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất đai Lê Thanh Khuyến

Quản lý nhà nước về đất đai đã đạt được những kết quả toàn diện

Có thể nói, công tác QLNN về đất đai đã đạt được những kết quả toàn diện trên tất cả lĩnh vực, góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo QP-AN và an sinh xã hội, đã tổ chức chỉ đạo để rà soát xử lý tình trạng lãng phí đất đai; hoàn thành cơ bản công tác đo đạc, cắm mốc ranh giới đất của các công ty, nông, lâm nghiệp; hoàn thành cấp GCN đối với 97,2% diện tích đất cần cấp để đất đai tham gia vào thị trường bất động sản; hoàn thành việc lập QHSDĐ từ cấp quốc gia đến cấp tỉnh; nguồn thu từ đất đai đóng góp hơn 8% thu NSNN và hơn 10% thu ngân sách nội địa hằng năm,... hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý đất đai (QLĐĐ) thể hiện trên các bình diện sau:

Một là, đã đổi mới công tác hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật để xóa bỏ nhiều rào cản, tháo gỡ vướng mắc trong công tác QLNN về đất đai, góp phần ổn định chính trị - xã hội, thông qua việc trình ban hành Luật Đất đai (LĐĐ) năm 2003, chủ trì tổng kết Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa IX) về tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, tại Kỳ họp thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trình Quốc hội thông qua LĐĐ năm 2013; tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW để trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới về chính sách đất đai với những quan điểm định hướng lớn về đất đai để tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai trong thời gian tới. Tham mưu trình Chính phủ ban hành và trình cấp có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản QPPL để giải quyết căn bản những vướng mắc khó khăn trong quá trình thi hành Luật Đất đai, với nhiều đóng góp lớn góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy sản xuất phát triển, phát huy nguồn lực đất đai và đảm bảo quyền của người SDĐ,... các văn bản được trình ban hành theo đúng trình tự, thủ tục, đảm bảo tiến độ, kịp thời có hiệu lực ngay khi LĐĐ có hiệu lực thi hành, khắc phục tình trạng Luật chờ các văn bản hướng dẫn.

Hai là, QLNN về đất đai tiếp tục góp phần đảm bảo an ninh lương thực, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về đất đai nhất là chính sách mở rộng thời hạn giao đất trồng lúa, đất trồng cây hàng năm, cùng với chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp, ứng dụng công nghệ đã khuyến khích nông dân, doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh; qua đó, từ một nước thiếu lương thực đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới. Bảo đảm diện tích đất trồng lúa để ổn định an ninh lương thực quốc gia, với việc duy trì 3,76 triệu ha đất lúa, trong đó, bảo vệ nghiêm ngặt đối với 3,1 triệu ha đất chuyên trồng lúa nước để đảm bảo phù hợp với tiến trình phát triển trong tình hình mới, nhưng vẫn đảm bảo và duy trì an ninh lương thực quốc gia; đồng thời, cho phép chuyển đổi linh hoạt khoảng 300 nghìn ha đất trồng lúa để chủ động trước tác động của BĐKH, nhu cầu của thị trường và nâng cao hiệu quả SDĐ, thu nhập cho nông dân.

Ba là, công tác QLĐĐ tiếp tục khẳng định vai trò đảm bảo nhu cầu SDĐ cho các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội, BVMT phù hợp với yêu cầu của thời kỳ CNH-HĐH đất nước thông qua việc:

Hoàn thiện công tác QH, KHSDĐ để đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển KT-XH, làm căn cứ để nhà nước giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích SDĐ cho các mục tiêu phát triển, QP-AN, thông qua QHSDĐ đã góp phần đảm bảo tính thống nhất trong công tác QLNN về đất đai, là cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích SDĐ, thu hồi đất, phân bổ và chủ động dành quỹ đất hợp lý đáp ứng nhu cầu đất đai cho xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu đô thị, thương mại, dịch vụ, các khu dân cư,... góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động và đảm bảo quốc phòng, giữ vững ổn định tình hình an ninh, chính trị - xã hội của cả nước và các địa phương. Từ năm 2016 đến nay, đã thực hiện giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích SDĐ để giải quyết nhu cầu nhà ở đô thị, nông thôn khoảng trên 19,6 nghìn ha, phát triển sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp khoảng 15,5 nghìn ha, xây dựng kết cấu hạ tầng khoảng 25,5 nghìn ha, đưa hơn 500 ha đất chưa sử dụng vào phục vụ các mục đích phát triển KT-XH, qua đó, đã hình thành lên các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu du lịch, dịch vụ đồng bộ, có quy mô SDĐ lớn đóng góp trực tiếp cho quá trình chuyển dịch KT-XH. Hiệu quả SDĐ sản xuất nông nghiệp, phi nông nghiệp tăng gấp hơn 2 lần so với trước đây.

Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ cấp GCN lần đầu đối với các loại đất, góp phần đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền của người SDĐ, thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển, cả nước đã đo đạc lập bản đồ địa chính đạt trên 77% tổng diện tích tự nhiên; tỷ lệ cấp GCN lần đầu đạt trên 97% tổng diện tích các loại đất cần cấp (trung bình mỗi năm trong giai đoạn này tăng từ 0,16% đến 2% tương đương mỗi năm khoảng gần 20 ngàn GCN). Kết quả này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao hiệu quả công tác QLNN về đất đai, bảo đảm điều kiện pháp lý cho người SDĐ thực hiện các quyền, nghĩa vụ hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật đất đai.

Nguồn lực về đất đai tiếp tục được phát huy, góp phần tạo ra nguồn thu lớn cho NSNN, đồng thời bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người SDĐ, lợi ích của nhà nước, chủ đầu tư; các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã xây dựng, ban hành và công bố công khai Bảng giá đất theo quy định, công tác xác định giá đất cụ thể đã được các tỉnh, thành phố tổ chức thực hiện đúng quy định, quy trình, bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người có đất thu hồi. Số tiền thu từ đất (tiền SDĐ, tiền thuê đất, thuế SDĐ nông nghiệp, thuế SDĐ phi nông nghiệp) đã tăng qua các năm cho NSNN, trung bình nguồn thu từ đất đóng góp từ 12% đến 15% cho ngân sách, cá biệt có những nơi nguồn thu từ đất chiếm tới trên 30% ngân sách địa phương.

Công tác cải cách TTHC được tập trung chỉ đạo, đã cắt giảm, đơn giản hóa nhiều TTHC, phối hợp liên thông, chia sẻ CSDL về đất đai cho các ngành, lĩnh vực để góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc khơi thông nguồn lực đất đai để phục vụ cho phát triển KT-XH của đất nước, với việc đã cắt giảm từ 1/2 - 1/3 thời gian thực hiện thủ tục khi thực hiện các giao dịch về QSDĐ, quyền tài sản trên đất, chỉ số đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản (một trong 10 chỉ số để đánh giá môi trường kinh doanh) có sự chuyển biến mạnh mẽ đứng thứ 60/190 quốc gia được đánh giá; tất cả các huyện trên cả nước đã ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hồ sơ địa chính, QLĐĐ ở các mức độ khác nhau, trong đó có 182/713 đơn vị hành chính cấp huyện thuộc 46 tỉnh, thành phố đang vận hành, quản lý khai thác, sử dụng đồng bộ CSDL đất đai để phục vụ công tác QLNN về đất đai trên địa bàn, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính về đất đai, đồng thời, góp phần làm minh bạch thị trường bất động sản. Bên cạnh đó, thực hiện thí điểm kết nối liên thông điện tử giữa cơ quan thuế và cơ quan đăng ký đất đai, đây là một bước đột phá cải cách TTHC rất quan trọng, được người dân và các cơ quan QLNN ghi nhận, đánh giá cao.

Các nhiệm vụ chủ yếu cần thực hiện

Để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác QLNN về đất đai nhằm phát huy tối đa nguồn lực đất đai cho phát triển đất nước, công tác QLĐĐ trong thời gian tới cần tập trung thực hiện và hoàn thiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, hệ thống CS, PL đất đai phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để Nhà nước “nắm chắc, quản chặt” quỹ đất đai thông qua việc thể chế đầy đủ nội dung của Nghị quyết mới của Ban chấp hành Trung ương về CS, PL về đất đai bằng việc hoàn thành và trình ban hành LĐĐ (sửa đổi) trong thời gian tới, đồng thời, phân bổ nguồn tài nguyên đất đai cho các ngành KT-XH, đảm bảo mục tiêu của QP-AN; tăng cường chỉ đạo, tổ chức triển khai và kiểm tra việc thi hành pháp luật về đất đai; đánh giá tác động của các CS, PL đất đai đối với phát triển KT-XH và cộng đồng.

Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện hệ thống dữ liệu đất đai, đáp ứng yêu cầu QLNN về đất đai trên tất cả các lĩnh vực; xây dựng hệ thống thông tin đất đai thành một bộ phận của hệ thống dữ liệu quốc gia; chuyển dần các hoạt động đăng ký, giao dịch trong lĩnh vực đất đai sang giao dịch điện tử; tổ chức việc quản lý, khai thác, vận hành có hiệu quả hệ thống thông tin đất đai; cập nhật, chỉnh lý kịp thời các dữ liệu địa chính, điều tra cơ bản về đất đai, QH, KHSDĐ, giá đất, thống kê, kiểm kê đất đai và các dữ liệu khác thuộc cơ sở dữ liệu đất đai.

Thứ ba, tập trung điều tra cơ bản, đánh giá tiềm năng và chất lượng tài nguyên đất đai toàn quốc, trong đó chú trọng việc điều tra các vùng đặc thù về thoái hóa, xâm nhập mặn, ngập úng, khô hạn, hoang mạc hóa, xói mòn, rửa trôi, ô nhiễm đất phục vụ quản lý, SDĐ bền vững và thích ứng với BĐKH; đổi mới phương pháp thực hiện và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong công tác thống kê, kiểm kê đất đai định kỳ và theo chuyên đề nhằm cung cấp số liệu chính xác phục vụ công tác QLNN về đất đai và phát triển KT-XH.

Thứ tư, hoàn thiện hệ thống QH, KHSDĐ góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu SDĐ phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH-HĐH đất nước; tiếp tục nghiên cứu đổi mới nội dung và phương pháp theo công nghệ tiên tiến trong việc lập QH, KHSDĐ lồng ghép với các yếu tố môi trường và BĐKH; xây dựng, hoàn thiện cơ chế, triển khai ứng dụng công nghệ hiện đại trong giám sát biến động tài nguyên đất đai và thực hiện QH, KHSDĐ, ưu tiên giám sát việc quản lý, SDĐ chuyên trồng lúa, đất rừng để góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và BVMT sinh thái.

Thứ năm, hoàn thiện hệ thống cơ chế tài chính về đất đai với các yêu cầu cụ thể như hệ thống định giá đất trở thành công cụ tài chính điều tiết các quan hệ đất đai và quản lý thị trường bất động sản; xây dựng hệ thống phát triển quỹ đất bảo đảm phát triển và quản lý quỹ đất một cách chặt chẽ, hợp lý, đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH.

Thứ sáu, kiện toàn hệ thống bộ máy tổ chức, nâng cao năng lực QLĐĐ đồng bộ từ trung ương đến địa phương, đảm bảo chức năng thống nhất QLNN về đất đai trên phạm vi cả nước, có sự phân công, phân cấp rõ ràng, hoạt động có hiệu quả, đủ năng lực thực hiện các hoạt động QLNN và các dịch vụ công về đất đai. Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đầu tư trang thiết bị, ứng dụng tiến bộ KHCN ngang tầm trình độ tiên tiến của các nước trong khu vực và trên thế giới.

LÊ THANH KHUYẾN

Tổng cục Trưởng Tổng cục Quản lý đất đai