news

Hội nghị sơ kết 6 năm thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP: Tạo đột phá trong liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp xanh và bền vững

Thứ năm, 13/11/2025, 09:14 (GMT+7)
logo Sáng ngày 11/11/2025, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị sơ kết 6 năm thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Hội nghị do Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng chủ trì, với sự tham dự của lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ, đại diện các Bộ, ngành trung ương, các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp và hợp tác xã tiêu biểu trên toàn quốc.
z7211688579741_30dff3a47df9a55e8105e17ad3b46ce7_1762844645.webp
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng phát biểu khai mạc, chỉ đạo tại Hội nghị sơ kết 6 năm thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ - cú hích quan trọng cho liên kết chuỗi giá trị nông sản

Báo cáo tại Hội nghị, ông Lê Đức Thịnh - Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn nhấn mạnh, Nghị định số 98/2018/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 05/7/2018 là cột mốc quan trọng, mở ra hướng đi mới cho nền nông nghiệp hợp tác và liên kết chuỗi giá trị. Sau sáu năm triển khai, Nghị định đã tạo sức lan tỏa sâu rộng, thúc đẩy sự hợp tác giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị nông sản từ doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác đến hộ nông dân, góp phần chuyển biến mạnh mẽ tư duy sản xuất nhỏ lẻ sang liên kết quy mô lớn, chuyên nghiệp và hiệu quả.

Tính đến hết năm 2024, cả nước có 2.938 dự án và kế hoạch liên kết được phê duyệt, trong đó 1.968 dự án và 970 kế hoạch do các địa phương chủ trì thực hiện. Các mô hình liên kết tập trung chủ yếu tại vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (978 liên kết), kế đến là Tây Nguyên (862 liên kết) và Đồng bằng sông Cửu Long (769 liên kết), thấp nhất là khu vực Đồng bằng sông Hồng (131 liên kết).

Các chuỗi liên kết hình thành chủ yếu trong ba lĩnh vực trụ cột: trồng trọt, chăn nuôi và lâm nghiệp, trong đó trồng trọt chiếm hơn 65% tổng số liên kết, tập trung vào các ngành hàng chiến lược như lúa gạo, rau quả, cà phê, hồ tiêu, cao su, trái cây, điều, gỗ và chăn nuôi bò sữa. Các vùng nguyên liệu tập trung được hình thành đã góp phần quan trọng ổn định cung cầu, kiểm soát chất lượng và nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Tổng nguồn lực thực hiện các dự án và kế hoạch liên kết đạt 15.243 tỷ đồng, trong đó ngân sách nhà nước chỉ chiếm 21%, còn lại là vốn đối ứng của doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân, thể hiện rõ hiệu quả xã hội hóa và tính chủ động của khu vực kinh tế nông nghiệp. Nhiều doanh nghiệp lớn đã trở thành “hạt nhân liên kết”, góp phần nâng cao giá trị gia tăng của nông sản, đồng thời thúc đẩy hình thành mô hình hợp tác công - tư (PPP) trong nông nghiệp ngày càng hiệu quả.

Đến nay, tỷ lệ giá trị sản phẩm nông nghiệp được sản xuất theo hình thức hợp tác, liên kết đạt 31,2%, dự kiến sẽ vượt 32% vào năm 2025, tức tăng hơn gấp ba lần so với giai đoạn trước khi ban hành Nghị định số 98. Nhiều mô hình liên kết điển hình đã trở thành chuỗi giá trị khép kín, giúp nâng cao thu nhập cho nông dân, thúc đẩy hình thành kinh tế hợp tác hiện đại, và khẳng định vai trò trung tâm của hợp tác xã trong tổ chức sản xuất nông nghiệp.

Ông Lê Đức Thịnh khẳng định: “Nghị định số 98/2018/NĐ-CP không chỉ là một chính sách hỗ trợ, mà là đòn bẩy thể chế hóa quan hệ hợp tác trong nông nghiệp, hướng tới xây dựng các chuỗi giá trị nông sản xanh - bền vững - hội nhập quốc tế. Đây chính là nền tảng để Việt Nam chuyển từ ‘tư duy sản xuất’ sang ‘tư duy chuỗi giá trị’, một bước tiến quan trọng trong tiến trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp”.

z7211688579503_3d1df1a60e618ef027e70a4c92951f44_1762844952.webp
Toàn cảnh Hội nghị

Những rào cản và kiến nghị sửa đổi

Theo TS. Hoàng Vũ Quang, sau 6 năm triển khai Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, mặc dù chính sách này đã góp phần hình thành hàng nghìn mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản trên cả nước, song quá trình thực hiện vẫn còn nhiều rào cản cả về thể chế, cơ chế lẫn thực thi.

Trước hết, cách tiếp cận chính sách vẫn còn thiên về hình thức hỗ trợ hành chính, chú trọng “hợp đồng liên kết” hơn là “chuỗi giá trị thực chất”. Nhiều địa phương mới dừng ở việc ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp và hộ nông dân mà chưa xây dựng được chuỗi liên kết bền vững có cam kết trách nhiệm, chia sẻ rủi ro, gắn với truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn kỹ thuật.

Bên cạnh đó, thủ tục hành chính còn phức tạp và thiếu thống nhất giữa các địa phương, khiến việc thẩm định, phê duyệt dự án kéo dài, làm giảm động lực tham gia của doanh nghiệp. Cơ chế hỗ trợ còn manh mún, quy mô nhỏ, thiếu ổn định, chưa khuyến khích được các dự án lớn, có tầm chiến lược.

Một hạn chế khác là năng lực quản trị và điều phối chuỗi của hợp tác xã (HTX) và doanh nghiệp nhỏ còn yếu; cán bộ HTX chưa được đào tạo chuyên sâu về kinh tế hợp tác và quản trị chuỗi; nhiều HTX vẫn hoạt động theo mô hình cũ, thiếu minh bạch, không có kế hoạch kinh doanh rõ ràng. Cơ chế chia sẻ lợi ích và rủi ro trong chuỗi liên kết chưa được thể chế hóa cụ thể, nên khi xảy ra biến động giá hoặc thiên tai, bên yếu thế thường chịu thiệt hại nhiều hơn.

Hạ tầng vùng nguyên liệu và logistics nông nghiệp vẫn là điểm nghẽn lớn. Hầu hết vùng sản xuất chưa được đầu tư bài bản về hệ thống thủy lợi, kho bảo quản, đường nội đồng, trạm kiểm định chất lượng. Sự thiếu đồng bộ này khiến nhiều dự án liên kết không thể vận hành trơn tru hoặc không đáp ứng được yêu cầu của thị trường xuất khẩu.

Từ những phân tích trên, TS. Hoàng Vũ Quang đề xuất cần sửa đổi Nghị định 98 theo hướng “liên kết chuỗi giá trị xanh, số hóa và bền vững”, với một số trọng tâm chính: (1) Chuyển trọng tâm từ “hỗ trợ đầu vào” sang “tạo động lực chuỗi giá trị” - Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, định hướng, giám sát và đồng hành, không làm thay doanh nghiệp hay hợp tác xã. (2) Xây dựng cơ chế phân cấp mạnh cho địa phương, cho phép phê duyệt linh hoạt dự án liên kết theo quy mô vùng, giảm thủ tục chồng chéo. (3) Đơn giản hóa quy trình thẩm định, giải ngân và giám sát dự án, rút ngắn thời gian phê duyệt, bảo đảm dự án được triển khai đúng mùa vụ và thực chất. (4) Hình thành Quỹ hỗ trợ phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp xanh, ưu tiên cho các dự án có cam kết bảo vệ môi trường, giảm phát thải và chuyển đổi số trong quản trị chuỗi. (5) Tăng cường năng lực HTX thông qua đào tạo cán bộ quản trị, hướng dẫn ứng dụng công nghệ số, đồng thời thúc đẩy vai trò tư vấn độc lập và các tổ khuyến nông cộng đồng. (6) Hoàn thiện khung pháp lý về chia sẻ lợi ích và rủi ro, trong đó các hợp đồng liên kết phải quy định rõ cơ chế đền bù, bảo hiểm sản xuất và tiêu chuẩn truy xuất nguồn gốc sản phẩm. (7) Khuyến khích phát triển vùng nguyên liệu đạt chuẩn quốc tế (GlobalGAP, VietGAP), coi đây là hạt nhân của chuỗi giá trị, gắn với chế biến và xuất khẩu bền vững.

TS. Hoàng Vũ Quang khẳng định: “Muốn liên kết bền vững, phải đặt người nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp trong một hệ sinh thái chuỗi giá trị minh bạch, chia sẻ và có lợi cho tất cả các bên. Nghị định số 98 cần được sửa đổi theo tinh thần đổi mới tư duy, chuyển từ hỗ trợ hành chính sang kiến tạo phát triển, từ chuỗi giá trị truyền thống sang chuỗi giá trị xanh và số hóa”.

Phát triển tư vấn và hạ tầng hỗ trợ, chìa khóa cho chuỗi liên kết bền vững

Theo ông Trần Minh Hải, đại diện Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn, công tác tư vấn và phát triển hạ tầng hỗ trợ là “mắt xích then chốt” quyết định thành công của các chuỗi liên kết nông nghiệp. Ông nhấn mạnh rằng, nhiều hợp tác xã (HTX) hiện nay vẫn chưa hiểu đúng bản chất của chuỗi giá trị, dễ nhầm lẫn giữa “hợp đồng tiêu thụ sản phẩm” đơn thuần với “liên kết có chia sẻ lợi ích, trách nhiệm và rủi ro” giữa các bên.

Thực tế cho thấy, những dự án có sự tư vấn bài bản ngay từ đầu thường đạt hiệu quả cao hơn 30 - 40% so với các dự án tự triển khai. Ngược lại, không ít mô hình thất bại do thiếu sự hướng dẫn chuyên nghiệp về quản trị, kỹ thuật, hay cơ chế giám sát, dẫn đến đứt gãy chuỗi giá trị, phá vỡ hợp đồng và mất niềm tin giữa các bên tham gia.

Báo cáo của nhóm chuyên gia Trường Chính sách công và PTNT cho biết, hiện tỷ lệ dự án liên kết được hỗ trợ tư vấn chỉ chiếm khoảng 65,3%, với mức hỗ trợ trung bình chưa đến 60 triệu đồng/dự án, thấp hơn rất nhiều so với khung hỗ trợ tối đa 300 triệu đồng theo Nghị định 98. Sự thiếu hụt này khiến nhiều HTX, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, không đủ nguồn lực để thuê đơn vị tư vấn xây dựng dự án, dẫn đến hồ sơ yếu, thiếu tính khả thi và khó được phê duyệt.

Từ thực tiễn đó, ông Trần Minh Hải kiến nghị chuẩn hóa quy trình tư vấn liên kết, đào tạo đội ngũ tư vấn viên cấp địa phương, và xây dựng mạng lưới tư vấn cộng đồng gắn với hệ thống khuyến nông cơ sở. Đồng thời, cần ứng dụng công nghệ số trong quản lý, giám sát và đánh giá dự án, giúp minh bạch hóa quy trình và nâng cao hiệu quả triển khai.

Một số địa phương như Đồng Tháp đã triển khai mô hình “tư vấn cộng đồng khuyến nông”, huy động cán bộ kỹ thuật, các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp đầu chuỗi cùng tham gia hỗ trợ HTX từ khâu lập dự án đến tổ chức thực hiện. Đây được xem là mô hình đáng nhân rộng nhằm tăng tính chuyên nghiệp, nâng cao năng lực quản trị và tính bền vững cho các chuỗi liên kết nông nghiệp xanh trong giai đoạn tới.

Bên cạnh yếu tố tư vấn, phát triển hạ tầng phục vụ liên kết chuỗi giá trị được các chuyên gia xác định là điều kiện tiên quyết để bảo đảm tính bền vững và hiệu quả của Nghị định số 98 trong giai đoạn tiếp theo. Theo phân tích của Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn, đa số vùng nguyên liệu hiện nay vẫn thiếu hạ tầng đồng bộ, từ giao thông nội đồng, hệ thống thủy lợi, kho lạnh, cơ sở sơ chế, đến trung tâm kiểm định chất lượng. Nhiều dự án liên kết được phê duyệt nhưng không thể triển khai đúng tiến độ do chưa có hạ tầng phụ trợ hoặc không có mặt bằng tập trung, khiến chi phí vận chuyển, lưu trữ, bảo quản tăng cao, làm giảm sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam.

Hiện nay, chỉ khoảng 35% số dự án liên kết được hỗ trợ hạ tầng sản xuất; phần lớn mới dừng ở mức hỗ trợ máy móc nhỏ lẻ hoặc công trình phụ trợ đơn giản. Nhiều hợp tác xã phản ánh rằng quy mô đầu tư hạ tầng còn manh mún, thiếu sự kết nối giữa các dự án, dẫn đến hiệu quả lan tỏa thấp và không hình thành được vùng nguyên liệu đạt chuẩn.

Từ thực tế đó, ông Trần Minh Hải nhấn mạnh: “Nếu không đầu tư hạ tầng bài bản, liên kết chỉ dừng ở ký kết trên giấy. Hạ tầng phải được coi là ‘nền móng vật chất’ của chuỗi giá trị, là yếu tố định hình năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản”.

Ông đề xuất ba định hướng trọng tâm trong phát triển hạ tầng phục vụ chuỗi giá trị nông nghiệp: (1) Tích hợp quy hoạch hạ tầng vùng nguyên liệu với quy hoạch tỉnh và quy hoạch vùng, bảo đảm tính thống nhất giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ. (2) Ưu tiên đầu tư công cho hạ tầng khung, như hệ thống thủy lợi, kho lạnh, trung tâm logistics, kiểm định chất lượng, đồng thời khuyến khích xã hội hóa hạ tầng chế biến, đóng gói, bảo quản nông sản. (3) Đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý hạ tầng vùng nguyên liệu, áp dụng công nghệ định vị, mã số vùng trồng, theo dõi dữ liệu sản lượng và truy xuất nguồn gốc trên nền tảng số hóa.

Thực tiễn ở một số địa phương như: Lâm Đồng, Đồng Tháp, Bắc Ninh cho thấy, việc kết hợp đầu tư hạ tầng vùng nguyên liệu với phát triển logistics và chế biến sâu đã giúp tăng giá trị nông sản 20-25%, đồng thời giảm tổn thất sau thu hoạch từ 10-15%. Đây là minh chứng rõ ràng cho thấy đầu tư hạ tầng và tư vấn chuyên nghiệp là hai trụ cột quan trọng của chuỗi giá trị nông nghiệp bền vững.

Thứ trưởng Võ Văn Hưng: Liên kết phải mang lại hiệu quả thực chất cho chủ thể sản xuất 

Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng đánh giá cao các tham luận mang tính dẫn dắt, “đã chỉ ra được nguyên nhân nội tại và bản chất của những vướng mắc hiện nay”.

Thứ trưởng nhấn mạnh, trong tiến trình phát triển đất nước và ngành nông nghiệp, liên kết không chỉ là hình thức mà là yêu cầu cấp thiết để đổi mới và phát triển bền vững. Thứ trưởng nêu rõ: “Chúng ta cần thay đổi tư duy: liên kết không phải để tiêu tiền ngân sách, mà để thúc đẩy sản xuất, đem lại hiệu quả trực tiếp cho chính chủ thể của chuỗi. Nhà nước và các tổ chức quốc tế chỉ đóng vai trò kiến tạo và thúc đẩy”. 

Theo Thứ trưởng Võ Văn Hưng, niềm tin giữa các chủ thể liên kết - doanh nghiệp, hộ nông dân, ngân hàng, hợp tác xã là yếu tố quyết định. Nghị định số 98 đã chứng minh hiệu quả, song để tạo đột phá trong giai đoạn mới, cần tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao vai trò tham mưu của cơ quan địa phương, bảo đảm liên kết vận hành thực chất, hiệu quả và lâu dài.

z7212224038024_33bab009f62bcea27a7b7a4787185c58_1762845040.webp
Đại biểu tham luận tại Hội nghị

Ý kiến từ địa phương và hợp tác xã: cần tháo gỡ “nút thắt” về vốn và hạ tầng

Đại diện Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đồng Tháp kiến nghị đầu tư vùng nguyên liệu tập trung, quy hoạch rõ ràng và quản lý chặt chẽ vùng sản xuất, đồng thời xây dựng trung tâm kiểm nghiệm chất lượng nông sản đạt chuẩn quốc tế, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu. Tỉnh cũng đề xuất mở rộng thị trường tiêu thụ, giảm phụ thuộc vào các thị trường trọng điểm như Indonesia và Trung Quốc.

Bà Võ Thị Nhung - Phó Giám đốc Sở NN&MT Nghệ An cho biết, địa phương hiện có 40 dự án liên kết, với 278 hợp tác xã tham gia, bước đầu hình thành các chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung và hợp tác. Tuy nhiên, Nghệ An còn gặp khó khăn về vốn đầu tư công, cơ sở hạ tầng, chế biến sâu, và chính sách tích tụ đất đai chưa đủ mạnh. Tỉnh mong muốn được Trung ương ưu tiên bố trí nguồn đầu tư công, hỗ trợ hạ tầng và tín dụng ưu đãi để mở rộng quy mô liên kết.

Đại diện HTX Nguyễn Văn Minh nêu vướng mắc về đất đai và chính sách tài chính, khi nhiều HTX “không có tài sản thế chấp nên rất khó tiếp cận nguồn vốn vay”. Ông kiến nghị chính sách tài chính cần linh hoạt hơn, gắn với nhu cầu thực tế của chuỗi, đồng thời tăng cường kiểm tra, kiểm chứng tính hiệu quả của các dự án liên kết.

Đáng chú ý, một hợp tác xã khác ở khu vực miền núi phía Bắc cũng bày tỏ nhiều trăn trở: “Sự ủng hộ của chính quyền địa phương chưa cao, HTX mong muốn đầu tư, xây dựng sản phẩm, nhưng khi chuỗi bắt đầu có hiệu quả thì giá bị đẩy lên, mất tính ổn định. Cần có cơ chế bảo vệ quyền lợi của chủ thể chủ trì liên kết. Ngoài ra, hiện chưa có ngân hàng nào đánh giá liên kết để cho vay; nhiều dự án chưa được giải ngân, giữa tỉnh và xã còn đùn đẩy trách nhiệm, trong khi HTX rất cần vốn để duy trì hoạt động”.

Ý kiến này cho thấy sự cấp thiết của việc đồng bộ cơ chế hỗ trợ tài chính, tạo điều kiện cho HTX và doanh nghiệp chủ động đầu tư, mở rộng chuỗi giá trị và chia sẻ rủi ro với nông dân.

Liên kết thực chất - nền tảng cho nông nghiệp bền vững và hội nhập

Phát biểu kết luận Hội nghị, Thứ trưởng Võ Văn Hưng trân trọng ghi nhận tinh thần trách nhiệm, tâm huyết và ý kiến thẳng thắn của các đại biểu, từ nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác đến bà con nông dân. Thứ trưởng khẳng định, những ý kiến đóng góp tại Hội nghị không chỉ phản ánh thực tiễn sinh động của ngành, mà còn thể hiện tấm lòng và trách nhiệm của những người gắn bó với nông nghiệp, nông dân và nông thôn Việt Nam.

Thứ trưởng yêu cầu Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn tiếp thu đầy đủ các ý kiến tại Hội nghị, tham mưu cho lãnh đạo Bộ xây dựng báo cáo tổng hợp toàn diện, khách quan về kết quả 6 năm triển khai Nghị định 98. Báo cáo cần chỉ rõ những kết quả đạt được, bài học kinh nghiệm, những tồn tại, hạn chế và định hướng phương hướng trong giai đoạn tới, bảo đảm phục vụ cho việc hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế hợp tác và liên kết trong nông nghiệp.

Thứ trưởng nhấn mạnh, liên kết không phải đến khi có Nghị định số 98 mới được đặt ra, mà là một phương thức phát triển tất yếu, một quy luật của nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại. Nếu các bên - từ người dân, hợp tác xã, doanh nghiệp đến ngân hàng, nhà khoa học, liên kết đúng, thực chất, hài hòa lợi ích và trách nhiệm, thì các chính sách sẽ phát huy hiệu quả, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển bền vững ở từng vùng, từng lĩnh vực.

Từ thực tiễn triển khai, Thứ trưởng rút ra bài học kinh nghiệm quan trọng: ở đâu chính quyền địa phương thực sự vì dân, vì doanh nghiệp, gần dân, đồng hành với dân, thì ở đó chính sách đi vào cuộc sống và nông nghiệp phát triển mạnh mẽ. Thứ trưởng đặc biệt lưu ý đến đạo đức công vụ, tinh thần trách nhiệm và năng lực thực thi của đội ngũ cán bộ địa phương - yếu tố quyết định hiệu quả của mọi chính sách.

Thứ trưởng Võ Văn Hưng khẳng định, trong thời gian qua, nông nghiệp Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Trung ương, đặc biệt là trong chính sách đất đai, tín dụng, đầu tư hạ tầng và phát triển vùng nguyên liệu. Những cơ chế này đã tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp chủ động đầu tư, mở rộng sản xuất, hình thành nhiều mô hình hiệu quả.

Dẫn chứng từ thực tiễn, Thứ trưởng nhắc đến vùng cà phê Tây Nguyên, các mô hình lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng Tháp Mười, khẳng định trí tuệ, văn hóa, đạo đức và ý chí vươn lên của người nông dân Việt Nam chính là sức mạnh nội sinh to lớn giúp đất nước phát triển.

Tuy nhiên, Thứ trưởng cũng thẳng thắn nhìn nhận, trong bối cảnh mới, bên cạnh những thành công, còn tồn tại nhiều bất cập trong cơ chế, tổ chức thực hiện và vai trò điều phối, cần được rà soát, sửa đổi. Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ tiếp thu toàn bộ ý kiến tại Hội nghị để hoàn thiện chính sách, phối hợp với các bộ, ngành liên quan rút ngắn “độ trễ” của chính sách, tránh tư duy hành chính, không chủ quan, không tự mãn trước kết quả đã đạt được. Để liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp thực sự đi vào chiều sâu, Thứ trưởng đề xuất ba nhóm giải pháp trọng tâm:

Thể chế và chính sách: Cần tích hợp, rà soát và điều chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan (như Nghị định số 68, 57, 59…), hướng tới một khung chính sách thống nhất, dễ áp dụng, minh bạch và kịp thời, phù hợp với thực tiễn từng vùng, từng ngành hàng.

Minh bạch hóa thông tin: Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu số quốc gia về vùng liên kết, cây trồng, vật nuôi, sản phẩm chủ lực và đất đai. Việc số hóa dữ liệu vùng nguyên liệu sẽ giúp quản lý, giám sát và quy hoạch sản xuất hiệu quả hơn.

Phối hợp đa bên: Thúc đẩy sự gắn kết chặt chẽ giữa “bốn nhà”: Nhà nông - Nhà doanh nghiệp - Nhà khoa học - Nhà nước (và ngân hàng), hình thành hệ sinh thái nông nghiệp thống nhất từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ, dựa trên niềm tin, trách nhiệm và chia sẻ lợi ích.

Kết thúc Hội nghị, Thứ trưởng Võ Văn Hưng nhấn mạnh: “Phát triển nông nghiệp hiện nay không chỉ là câu chuyện của riêng người nông dân, mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Mỗi cơ quan, mỗi doanh nghiệp, mỗi hợp tác xã phải đặt lợi ích của người dân và quốc gia lên hàng đầu, cùng xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại, hội nhập và bền vững, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.

Hồng Minh - Lương Hưng