Hội thảo khoa học: “Cà phê chi trả dịch vụ môi trường rừng: từ mô hình thí điểm đến khuyến nghị chính sách” phát triển bền vững cho Tây Nguyên

Thứ năm, 23/10/2025, 22:06 (GMT+7)
logo Ngày 23/10/2025, tại Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, hội thảo khoa học “Cà phê chi trả dịch vụ môi trường rừng: từ mô hình thí điểm đến khuyến nghị chính sách” được tổ chức bởi Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội phối hợp với Tropenbos Việt Nam và Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp Nhiệt đới. Hội thảo quy tụ các nhà khoa học, chuyên gia, đại diện doanh nghiệp, tổ chức quốc tế và cơ quan quản lý trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, môi trường, phát triển bền vững.
z7146710116754_9cfc5abb79406077a8a69e22977adc71_1761198079.jpg
PGS.TS. Lê Thị Trinh phát biểu khai mạc Hội thảo

Đặt nền tảng cho chính sách cà phê bền vững

Phát biểu khai mạc, PGS.TS. Lê Thị Trinh, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, nhấn mạnh: “Dịch vụ chi trả môi trường rừng (PFES) là một trong những chính sách đột phá của Việt Nam nhằm gắn kết hài hòa giữa bảo vệ rừng và phát triển kinh tế, hướng tới phát triển bền vững. Đặc biệt, trong lĩnh vực sản xuất cà phê, ngành hàng chủ lực của Tây Nguyên, việc lồng ghép cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có tính thực tiễn sâu sắc”.

PGS.TS. Lê Thị Trinh khẳng định, hội thảo không chỉ là dịp để trao đổi học thuật, mà còn là diễn đàn chính sách, nơi các nhà khoa học, nhà quản lý và doanh nghiệp cùng thảo luận, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả mô hình chi trả dịch vụ môi trường rừng trong chuỗi giá trị cà phê.

“Chúng tôi tin tưởng rằng, với sự tham gia, chia sẻ tâm huyết và trí tuệ của các đại biểu, hội thảo sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc hoạch định và triển khai chính sách trong thời gian tới”, PGS.TS. Lê Thị Trinh phát biểu.

z7146363426619_96333559ea1e7819af54e1e5869e1249_1761198141.jpg
Ông Trần Hữu Nghị phát biểu tại Hội thảo

Ngay sau phần khai mạc, ông Trần Hữu Nghị, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp Nhiệt đới (Tropenbos Việt Nam), phát biểu chào mừng và giới thiệu tổng quan hội thảo. Ông nhấn mạnh đây là bước đi quan trọng trong chuỗi hợp tác giữa Tropenbos và Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, nhằm chia sẻ các kết quả nghiên cứu, bài học kinh nghiệm và định hướng chính sách về chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) cho chuỗi giá trị cà phê.

“Cà phê không chỉ là sản phẩm kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, mà còn là lĩnh vực thể hiện cam kết của chúng ta đối với phát triển xanh và trách nhiệm môi trường. Thông qua cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng, chúng ta có thể biến bảo tồn thành động lực phát triển, giúp người nông dân trở thành chủ thể phục hồi rừng”, ông Nghị nhấn mạnh!.

Ông cho biết, những mô hình đang được triển khai tại Đắk Lắk như cà phê nông lâm kết hợp (NLKH) và sáng kiến “Góp Xanh” cho thấy tiềm năng rất lớn trong việc kết nối sản xuất bền vững với bảo tồn đa dạng sinh học và sinh kế cộng đồng.

Cà phê - “phép thử” cho phát triển xanh vùng Tây Nguyên

Đắk Lắk - thủ phủ cà phê của Việt Nam hiện có hơn 213.000 ha diện tích trồng cà phê, đóng góp hơn 30% sản lượng cả nước. Tuy nhiên, theo báo cáo của TS. Nguyễn Thị Ngọc Quyên (Trường Đại học Tây Nguyên), những năm gần đây, biến đổi khí hậu (BĐKH) đang tạo ra sức ép lớn đối với ngành hàng này: nhiệt độ trung bình tăng, mưa phân bố thất thường, hạn hán kéo dài và xói mòn đất gia tăng rõ rệt. Các số liệu thực địa cho thấy, năng suất cà phê tại nhiều khu vực của Đắk Lắk đã giảm 15- 25%, với hơn 100.000 ha cây trồng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi khô hạn và thoái hóa đất. Việc sử dụng quá nhiều phân bón và thuốc cỏ trong thời gian dài đã khiến độ phì đất suy giảm, hệ sinh thái vi sinh vật bị tổn thương, còn nguồn nước ngầm ngày càng cạn kiệt. BĐKH không chỉ làm thay đổi môi trường tự nhiên mà còn đe dọa sinh kế của hàng trăm nghìn nông hộ, khiến chi phí sản xuất tăng 15-20% trong khi năng suất giảm. Điều đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải chuyển đổi mô hình canh tác, từ sản xuất thuần cà phê sang những mô hình bền vững, thích ứng khí hậu và bảo tồn tài nguyên.

z7146363430949_b586bfddd8a4ea135524b7a349bee73e_1761198196.jpg
TS. Nguyễn Thị Ngọc Quyên trình bày tham luận tại Hội thảo

Trong báo cáo trình bày tại hội thảo, TS. Nguyễn Thị Ngọc Quyên nhấn mạnh rằng phát triển cà phê theo hướng “xanh hóa” chính là phép thử cho toàn bộ chiến lược phát triển vùng Tây Nguyên: “Nếu cà phê, cây trồng chủ lực, chịu nhiều tác động khí hậu nhất có thể chuyển đổi thành công sang mô hình bền vững, thì đó sẽ là minh chứng cho khả năng phục hồi và thích ứng của cả hệ thống nông nghiệp vùng cao nguyên”.

Một hướng đi quan trọng là mô hình cà phê nông lâm kết hợp (NLKH) - được coi là giải pháp tổng hợp giữa sinh thái, kinh tế và xã hội. Theo nghiên cứu của ThS. Triệu Thị Lắng, nhóm khảo sát tại Ea Kao (Buôn Ma Thuột), Đắk Phơi (huyện Lắk) và Hòa Lễ (Krông Bông) cho thấy, so với cà phê trồng thuần, mô hình NLKH mang lại giá trị tăng thêm (GTGT) 15- 25%/ha, đồng thời cải thiện độ che phủ đất, độ ẩm trung bình và khả năng chống xói mòn.

Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội - môi trường (KT-XH-MT) được đánh giá cho thấy: (1) Hiệu quả kinh tế (HQĐV) của mô hình NLKH cao hơn do tiết kiệm chi phí đầu vào và đa dạng hóa sản phẩm. (2) Hiệu quả xã hội thể hiện ở việc tạo thêm việc làm (công lao động/ha/năm tăng rõ), giá trị ngày công của người dân cao hơn. (3) Hiệu quả môi trường thể hiện qua độ che phủ tăng, độ ẩm đất ổn định và các biện pháp cải tạo đất được áp dụng thường xuyên.

Đặc biệt, khi được lồng ghép với cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR), mô hình này còn giúp người trồng cà phê nhận thêm thu nhập từ giá trị môi trường, thông qua việc duy trì độ che phủ, bảo vệ đất và nguồn nước. Chính sự kết hợp giữa sản xuất hàng hóa - bảo tồn - chi trả môi trường đã biến cà phê thành “cây cầu” nối giữa kinh tế xanh và sinh kế nông hộ.

Hội thảo thống nhất đánh giá, cà phê không chỉ là nông sản xuất khẩu, mà đang trở thành thước đo cho khả năng chuyển đổi sang kinh tế sinh thái của Tây Nguyên. Cà phê là phép thử cho mô hình phát triển xanh - nơi mỗi ha đất canh tác phải mang lại không chỉ hạt cà phê, mà còn nước, rừng và khí hậu lành cho tương lai.

Nông lâm kết hợp - Bài toán lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường

Là trung tâm của ngành cà phê Việt Nam, Đắk Lắk từ lâu được xem như “trái tim” của nền kinh tế nông nghiệp Tây Nguyên. Nhưng cùng với lợi thế ấy, vùng đất này cũng đang đối mặt với những giới hạn ngày càng rõ của mô hình cà phê trồng thuần: đất bạc màu, nước ngầm suy kiệt, chi phí sản xuất tăng cao và môi trường sinh thái bị tổn thương. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt, việc tìm kiếm hướng đi vừa đảm bảo năng suất vừa gìn giữ được tài nguyên trở thành bài toán lớn cho phát triển xanh của vùng cao nguyên.

Theo ThS. Triệu Thị Lắng, Khoa Nông nghiệp - Trường Đại học Tây Nguyên, nghiên cứu thực hiện tại ba điểm Ea Kao, Đắk Phơi và Hòa Lễ giai đoạn 2023- 2024 cho thấy mô hình cà phê nông lâm kết hợp (NLKH) đang chứng minh được ưu thế vượt trội so với mô hình trồng thuần. “Kết quả khảo sát cho thấy giá trị gia tăng (GTGT) của mô hình cà phê NLKH cao hơn 15-25%/ha so với cà phê thuần,” ThS. Triệu Thị Lắng cho biết, “đồng thời hiệu quả đồng vốn cũng lớn hơn nhờ tiết kiệm chi phí vật tư, tận dụng nguồn thu phụ từ cây trồng xen và hạn chế rủi ro khi giá cà phê biến động”.

Không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, mô hình này còn tác động mạnh mẽ đến khía cạnh xã hội. Tỷ lệ nông hộ mong muốn duy trì hoặc mở rộng diện tích cà phê NLKH đạt hơn 70%, bởi họ nhận thấy mô hình “tạo thêm việc làm, nâng giá trị ngày công và giúp phân bổ lao động hợp lý trong năm”. Trung bình, mô hình NLKH tạo thêm 1,2-1,5 công lao động/ha/năm so với trồng thuần, một yếu tố đặc biệt quan trọng ở vùng nông thôn, nơi sinh kế phụ thuộc nhiều vào mùa vụ.

Ở khía cạnh môi trường, hiệu quả của mô hình NLKH càng thể hiện rõ. Các chỉ tiêu đo đạc cho thấy độ che phủ đất tăng 25-30%, độ ẩm đất cao hơn 5- 7%, và hơn 80% số hộ áp dụng ít nhất hai biện pháp cải tạo đất như tủ gốc, trồng cỏ che phủ, sử dụng phân hữu cơ. “Khi có tầng cây che bóng và cây thân gỗ, đất được bảo vệ tốt hơn, nước được giữ lại lâu hơn và vi sinh vật có điều kiện phục hồi,” bà Lắng nhấn mạnh.

Từ kết quả tổng hợp ba nhóm tiêu chí kinh tế - xã hội - môi trường (KT-XH-MT), nghiên cứu xếp mô hình cà phê NLKH vào mức hiệu quả cao (H), nghĩa là không có tiêu chí nào ở mức thấp và ít nhất hai tiêu chí đạt mức cao. Trong khi đó, mô hình cà phê trồng thuần chỉ đạt mức trung bình, với nhiều yếu tố môi trường bị suy giảm do canh tác đơn điệu và lạm dụng hóa chất.

“Kết quả nghiên cứu khẳng định mô hình cà phê nông lâm kết hợp không chỉ là giải pháp sản xuất bền vững,” ThS. Triệu Thị Lắng kết luận, “mà còn là hướng đi tất yếu cho phát triển xanh của Tây Nguyên, nơi sản xuất gắn với bảo tồn, sinh kế gắn với trách nhiệm môi trường”.

z7146710683840_9924026d19db8044de1715094b49c566_1761198271.jpg
Toàn cảnh Hội thảo

Nhận thức cộng đồng - động lực của chuyển đổi xanh

Báo cáo của TS. Nguyễn Thúy Cường (ĐH Tây Nguyên) khảo sát tại hai huyện Lắk và Krông Bông cho thấy, hơn 70% nông hộ đã nhận thức tích cực về lợi ích dài hạn của mô hình NLKH, đặc biệt về khả năng chống chịu thời tiết cực đoan và đa dạng hóa thu nhập.
Phân tích dữ liệu cho thấy, nữ giới và nhóm nông dân trẻ có xu hướng chuyển đổi nhanh hơn, trong khi nhóm lớn tuổi hoặc ít được tập huấn còn thận trọng. Các rào cản chính là thiếu vốn đầu tư, kiến thức kỹ thuật và đầu ra sản phẩm ổn định, do đó cần chính sách tín dụng xanh, đào tạo kỹ thuật và mô hình trình diễn cộng đồng để thúc đẩy quá trình chuyển đổi.

Điểm nhấn của hội thảo là phần trình bày của Công ty TNHH Rồng Xanh Tây Nguyên với mô hình “Góp Xanh - sản phẩm sinh thái có chi trả DVMTR”, phối hợp cùng Tropenbos Việt Nam. Sáng kiến trích một phần giá trị tăng thêm của sản phẩm vườn rừng để hình thành Quỹ Góp Xanh, phục vụ phục hồi rừng, nâng cao sinh kế và hỗ trợ nông dân canh tác bền vững.

Từ năm 2024-2025, mô hình đã: Phủ xanh hơn 80 ha đồi trọc, phục hồi 200 ha vườn rừng; Tạo việc làm ổn định cho 150 hộ dân; Đóng góp 47 triệu đồng vào Quỹ DVMTR; Và triển khai chiến dịch “Uống cà phê - Trồng rừng cùng Góp Xanh”, lan tỏa tinh thần tiêu dùng xanh. Mô hình này được các đại biểu đánh giá là bước tiến thực tế trong xã hội hóa chi trả dịch vụ môi trường rừng, hướng đến chuỗi giá trị “Cà phê xanh - Rừng xanh - Sinh kế xanh”.

z7146364665708_ccb37be29b3c59b9f263db19cf485adb_1761198314.jpg
Các đại biểu tham dự Hội thảo chụp ảnh lưu niệm

Từ diễn đàn khoa học đến khuyến nghị chính sách

Các phiên thảo luận tại Hội thảo đã tập trung vào bốn nhóm đề xuất chính: Hoàn thiện khung pháp lý cho PES Coffee, công nhận giá trị môi trường của mô hình cà phê NLKH. Lồng ghép chính sách dịch vụ môi trường rừng vào OCOP, du lịch sinh thái và thương hiệu cà phê Việt Nam. Tăng cường hợp tác công - tư - cộng đồng (PPP), với nông dân là trung tâm, nhà khoa học và doanh nghiệp đồng hành. Phát triển nền tảng số “Góp Xanh Online” để minh bạch hóa việc giám sát, chi trả và trồng rừng.

Hội thảo khép lại trong không khí lắng đọng nhưng tràn đầy niềm tin. Sau một ngày làm việc sôi nổi, những bài tham luận khoa học, những câu chuyện từ thực tiễn và các sáng kiến từ cộng đồng đã cùng nhau vẽ nên bức tranh toàn cảnh về một tương lai xanh cho hạt cà phê Việt Nam - tương lai nơi mỗi nông hộ, mỗi doanh nghiệp và mỗi nhà hoạch định chính sách đều trở thành một phần của hệ sinh thái phát triển bền vững.

Đại diện Ban Tổ chức nhấn mạnh: “Mỗi ly cà phê sạch, bền vững là một phần rừng được hồi sinh”. Thông điệp ấy không chỉ là khẩu hiệu truyền thông mà đã trở thành triết lý phát triển mới của ngành cà phê Việt Nam, nơi lợi nhuận không chỉ đo bằng tấn hạt xuất khẩu, mà còn bằng diện tích rừng được bảo tồn, lượng carbon được hấp thụ và sinh kế được cải thiện.

Các chuyên gia nhận định rằng, sau hơn nửa thế kỷ trỗi dậy của “hạt cà phê Việt Nam”, đây là thời điểm thích hợp để ngành hàng này bước sang giai đoạn phát triển xanh, có trách nhiệm và hài hòa với thiên nhiên.
Từ những vùng đất đỏ bazan trù phú của Đắk Lắk, Buôn Ma Thuột, Lâm Đồng đến các thung lũng Lắk và Krông Bông, mô hình cà phê nông lâm kết hợp (NLKH) đang chứng minh khả năng gắn kết giữa năng suất - môi trường - văn hóa bản địa, tạo nên chuỗi giá trị sinh thái khép kín: rừng giữ nước - nước nuôi đất - đất nuôi cà phê - cà phê nuôi người.

Cùng với đó, sáng kiến “Góp Xanh” và các chương trình chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) đang mở ra cách tiếp cận kinh tế mới cho nông nghiệp Việt Nam: coi rừng là “tài sản chung có giá trị thị trường”, và người dân là “chủ thể kinh tế sinh thái” được trả công xứng đáng khi họ bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Đây chính là tinh thần của kinh tế tuần hoàn và tài chính xanh mà Việt Nam đang theo đuổi trong lộ trình phát thải ròng bằng “0” đến năm 2050.

Phát biểu tổng kết, đại diện Tropenbos Việt Nam và Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội khẳng định sẽ tiếp tục đồng hành cùng địa phương trong các nghiên cứu, thí điểm và nhân rộng mô hình PES Coffee, đồng thời phối hợp xây dựng hệ thống theo dõi, đo đếm giá trị môi trường và nền tảng số “Góp Xanh Online”, giúp minh bạch hóa quy trình chi trả, kết nối doanh nghiệp, người tiêu dùng và cộng đồng bảo vệ rừng.

“Hạt cà phê hôm nay không chỉ mang hương vị của đất, mà còn là ký ức của rừng và cam kết của con người với tương lai”, PGS.TS. Lê Thị Trinh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội chia sẻ trong lời bế mạc.

Từ góc nhìn ấy, cà phê Việt Nam đang được định nghĩa lại, không chỉ là sản phẩm nông nghiệp mũi nhọn, mà là biểu tượng của sự hòa hợp giữa phát triển và bảo tồn, giữa con người và thiên nhiên. Mỗi hạt cà phê được tạo ra từ vùng đất Tây Nguyên hôm nay là một “hạt xanh” của hy vọng, khởi đầu cho hành trình đưa Việt Nam trở thành quốc gia sản xuất nông sản bền vững, thân thiện với môi trường và có trách nhiệm toàn cầu.

Hồng Minh