Hợp tác quốc tế ngành Tài nguyên và Môi trường tiến bước cùng quá trình hội nhập của đất nước

Thứ năm, 28/7/2022, 17:41 (GMT+7)
logo Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đặt ra từ Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) trên cơ sở đường lối đổi mới và “mở cửa” nền kinh tế và trên cơ sở chính sách, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế. Chủ trương này tiếp tục được khẳng định và chỉ rõ tại các kỳ đại hội Đảng tiếp theo. Mới đây nhất, tại Đại hội lần thứ XIII (năm 2021), Đảng ta nhấn mạnh: Hội nhập quốc tế tiếp tục được triển khai chủ động, tích cực, tạo không gian quan hệ rộng mở, tranh thủ được sự hợp tác, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế.

Hợp tác quốc tế ngành Tài nguyên và Môi trường tiến bước cùng quá trình hội nhập của đất nước

Có thể thấy rằng, hội nhập quốc tế nói chung đã được Đảng và Nhà nước quan tâm từ lâu, thể hiện qua các văn bản chỉ đạo, định hướng chiến lược và chính sách qua thời gian. Theo xu thế của thế giới và bối cảnh ở trong nước, hội nhập quốc tế ngành TN&MT cũng ngày càng được quan tâm và đẩy mạnh, và đã đạt được một số thành tựu nhất định cùng với tiến trình phát triển chung của đất nước.

Thực hiện chủ trương chung về chủ động hội nhập quốc tế toàn diện, từ những ngày đầu xây dựng và phát triển đến nay, nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo, sự quan tâm của Lãnh đạo Bộ TN&MT, công tác hội nhập và hợp tác quốc tế của Bộ đã và đang tiếp tục được đẩy mạnh với nhiều chuyển biến tích cực và được thực hiện theo các định hướng chính sau: Đẩy mạnh chủ động hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực chuyên môn thuộc thẩm quyền QLNN của Bộ; thúc đẩy vai trò, tiếng nói và sự hiện diện của Việt Nam trên các diễn đàn và trong các khuôn khổ hợp tác quốc tế về TN&MT; tích cực thu hút các nguồn lực đầu tư và hỗ trợ kỹ thuật từ các đối tác song phương, đa phương và các định chế quốc tế thông qua nhiều cơ chế và giải pháp linh hoạt nhằm tăng cường năng lực QLNN của ngành TN&MT ở cả cấp trung ương và địa phương.

Thực hiện theo các định hướng trên, các hoạt động hợp tác quốc tế ngành TN&MT giai đoạn vừa qua đã mang lại các kết quả đáng khích lệ như: Đóng góp nguồn vốn đáng kể, hỗ trợ tích cực trong công tác quản lý và phát triển ngành TN&MT; tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác/tổ chức quốc tế lĩnh vực TN&MT, đáp ứng với xu thế và đường lối chính sách hội nhập quốc tế sâu rộng của Đảng và Nhà nước; vận động quốc tế hỗ trợ thực hiện nhiều chương trình, dự án hợp tác, qua đó góp phần tăng cường năng lực cho các bộ, ngành, địa phương, hỗ trợ xây dựng cơ chế, chính sách góp phần thực hiện Chiến lược quốc gia về BĐKH, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng Xanh. Khẳng định và nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam nói chung và Bộ TN&MT nói riêng đối với quốc tế và khu vực.

Kết quả đạt được trong khuôn khổ hợp tác song phương

Tính đến thời điểm hiện tại, Bộ TN&MT đã có quan hệ hợp tác song phương với 84 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có thể kể đến một số đối tác chính bao gồm:

Các đối tác chiến lược: Ấn Độ, Campuchia, Đan Mạch, Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Lào, Nhật Bản, Pháp, Trung Quốc.

Các đối tác hợp tác: Ba Lan, Đài Loan, Hungary, Italia, Na Uy, Nga, Ôxtrâylia, Phần Lan, Thụy Điển, Vương quốc Anh.

Các đối tác mới: Cuba, Bêlarút, Myanmar, Đông Timo, Malaysia, Thái Lan, Tây Ban Nha, Ảrập - Xêút, Singapore.

Các hoạt động hợp tác với các đối tác song phương tập trung vào xây dựng các chương trình, dự án hợp tác; phối hợp tổ chức hội nghị, hội thảo; đào tạo, tập huấn, trao đổi đoàn; xây dựng và ký kết các thỏa thuận hợp tác (MOU) thuộc các lĩnh vực quản lý của Bộ.

Hợp tác quốc tế ngành Tài nguyên và Môi trường tiến bước cùng quá trình hội nhập của đất nước

Đại hội Chi bộ Vụ Hợp tác quốc tế Bộ TN&MT, năm 2020

Kết quả đạt được trong khuôn khổ hợp tác đa phương

Trong giai đoạn vừa qua, hoạt động hợp tác quốc tế với các tổ chức quốc tế và trong các khuôn khổ hợp tác đa phương tiếp tục được duy trì, thúc đẩy toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực của ngành TN&MT, đặc biệt, trong các lĩnh vực môi trường, BĐKH, QLĐĐ, B&HĐ và TNN.

Các đối tác hợp tác đa phương bao gồm nhóm các khuôn khổ điều ước quốc tế và các định chế, tổ chức quốc tế. Hiện nay, Bộ có hoạt động hợp tác trong 99 khuôn khổ hợp tác đa phương. Nhóm các đối tác và khuôn khổ hợp tác đa phương chiến lược bao gồm: Ngân hàng Thế giới (WB), các tổ chức của Liên hợp quốc (UNDP, UNEP, UNIDO), các Công ước Đa phương về Môi trường và khí hậu mà Bộ là cơ quan đầu mối quốc gia (CONV-CBD, CONV-Basel, CONV-Stockholm, CONV-Ramsar, CONV-Vienna, CONV-UNFCCC), Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF), ASEAN, ASEAN+, Ủy hội sông Mê Công quốc tế,...

Trong đàm phán ký kết các điều ước, thỏa thuận quốc tế, thoả thuận hợp tác

Tính đến nay, thoả thuận hợp tác được ký kết giữa các đơn vị trực thuộc Bộ hoặc các đơn vị cấp 3 với các đối tác quốc tế chiếm tỷ lệ nhiều nhất, 51.4% trong tổng số các văn kiện hợp tác quốc tế đã ký kết (90 thỏa thuận); tiếp theo là các điều ước quốc tế do Bộ quản lý chiếm 29% (49 điều ước) trong khi đó thoả thuận quốc tế chỉ chiếm 20,6% (36 thỏa thuận) tổng số các văn kiện hợp tác quốc tế (Biểu đồ 1).

Trong các lĩnh vực do Bộ quản lý, hợp tác chung hoặc liên lĩnh vực có nhiều văn kiện được ký kết nhất, chiếm 20,1% ; tiếp theo là lĩnh vực môi trường chiếm 16%; TNN, ĐC&KS, BĐKH đều chiếm chiếm 11,5%; B&HĐ chiếm 9,8%; và KTTV chiếm 7,5%.

Về điều ước quốc tế: Theo Biểu đồ 2, tính đến nay, hợp tác đa phương có nhiều điều ước quốc tế được ký kết nhất chiếm 89.79% tổng số điều ước quốc tế do Bộ đang quản lý. Môi trường và TNN là 2 lĩnh vực có nhiều điều ước quốc tế đa phương được ký kết nhất, chiếm tương ứng 31,81% và 22,72% trong tổng số điều ước quốc tế; tiếp theo là các lĩnh vực BĐKH, chiếm 16,32% và ĐC&KS, chiếm 9,09% và KTTV và lĩnh vực quản lý chung chiếm 6,81% trong tổng số điều ước quốc tế. Bên cạnh đó, điều ước quốc tế song phương chỉ chiếm 10,21% trong tổng số điều ước quốc tế do Bộ quản lý và được ký kết trong lĩnh vực TNN và viễn thám; các lĩnh vực khác chưa có điều ước quốc tế song phương được ký kết.

Về thỏa thuận quốc tế: Hiện nay, Bộ đang thực hiện 36 thỏa thuận quốc tế song phương với 27 đối tác quốc tế (23 đối tác quốc tế song phương và 4 đối tác đa phương). Các thỏa thuận quốc tế được ký kết trong hầu hết các lĩnh vực quản lý của Bộ, chỉ có lĩnh vực đo đạc và bản đồ, viễn thám, công nghệ thông tin hiện chưa có thỏa thuận quốc tế nào.

Về thỏa thuận hợp tác: Bộ hiện đang thực hiện 90 thỏa thuận hợp tác, trong đó có 1 thỏa thuận hợp tác đã hết hiệu lực; 12 thỏa thuận hợp tác do các đơn vị cấp 3 của đơn vị trực thuộc Bộ thực hiện. Các thỏa thuận hợp tác cũng được ký kết trong tất cả các lĩnh vực do Bộ quản lý. Các thỏa thuận hợp tác được ký kết với các đối tác đa phương khu vực Đông Nam Á, Trung tâm Phòng chống thiên tai châu Á (ADPC) và nhiều đối tác song phương (chủ yếu trong khu vực châu Á và một số quốc gia châu Âu).

Vận động và thu hút nguồn tài trợ nước ngoài: Trong những năm qua, cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, BVMT ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư. Với chủ trương đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư, Bộ TN&MT đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng và vận động về ngân sách nhà nước nhiều chương trình/dự án cho các hoạt động về TN&MT thuộc sự quản lý thực hiện của Bộ, hoặc do Bộ điều phối và tham gia thực hiện một phần, nổi bật hơn cả là các chương trình/dự án hợp tác về môi trường, BĐKH, KTTV và đất đai.

Chính sách hỗ trợ, tài trợ và các ưu tiên của các đối tác nước ngoài đã có nhiều thay đổi đáng kể về phương thức, hình thức, quy mô và lĩnh vực. Nguồn tài trợ không hoàn lại giảm dần, thay thế bởi các cơ chế tài chính như ODA vốn vay và ưu đãi, hợp tác công tư, đầu tư nước ngoài,… Hỗ trợ thông qua phương thức hoà vốn ngân sách quốc gia thay vì hỗ trợ trực tiếp cho Ngành.

Tính đến nay, Bộ TN&MT đang quản lý thực hiện 43 dự án vốn viện trợ nước ngoài, với tổng vốn các nhà tài trợ đã cam kết là khoảng 10.120 tỷ đồng, bao gồm các nguồn ODA viện trợ không hoàn lại, ODA vốn vay, vốn vay ưu đãi và viện trợ phi chính phủ nước ngoài.

Biểu đồ 1. Thống kê văn kiện hợp tác quốc tế theo lĩnh vực QLNN của Bộ TN&MT
Hợp tác quốc tế ngành Tài nguyên và Môi trường tiến bước cùng quá trình hội nhập của đất nước

Biểu đồ 2. Thống kê điều ước quốc tế theo lĩnh vực QLNN của Bộ TN&MT
Hợp tác quốc tế ngành Tài nguyên và Môi trường tiến bước cùng quá trình hội nhập của đất nước

Xét theo lĩnh vực thuộc thẩm quyền QLNN của Bộ, viện trợ nước ngoài được thu hút nhiều nhất cho lĩnh vực Đất đai (41%), tiếp đó là lĩnh vực BĐKH (17%), KTTV (16%), Môi trường (11%), TNN (8%), Viễn thám (7%). Các lĩnh vực ĐĐ&BĐ và ĐC&KS, B&HĐ không có dự án tài trợ nước ngoài nào (Biểu đồ 4).

Biểu đồ 4. Tỷ trọng vốn tài trợ nước ngoài trong các lĩnh vực 
Hợp tác quốc tế ngành Tài nguyên và Môi trường tiến bước cùng quá trình hội nhập của đất nước

Tổ chức đoàn ra và đón, tiếp khách quốc tế: Trong các năm vừa qua, việc cử cán bộ đi công tác nước ngoài được sử dụng nguồn kinh phí quản lý hành chính, nguồn thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn, các đề tài khoa học công nghệ, các dự án sử dụng viện trợ quốc tế và do các đối tác quốc tế tài trợ trực tiếp.

Hoạt động đoàn ra: Quản lý hoạt động đoàn ra từ các nguồn kinh phí được thực hiện đạt hiệu quả với nhiều lượt cán bộ đi dự hội nghị, hội thảo, nghiên cứu khảo sát, đào tạo, ký kết các thoả thuận hợp tác.

Quản lý hoạt động đoàn ra từ các nguồn kinh phí được thực hiện đạt hiệu quả với nhiều lượt cán bộ đi dự hội nghị, hội thảo, nghiên cứu khảo sát, đào tạo, ký kết các thoả thuận hợp tác.

Đón và tiếp khách nước ngoài (đoàn vào): Bộ đã chuẩn bị chu đáo và tổ chức tốt việc đón tiếp và làm việc giữa Lãnh đạo Bộ với nhiều đoàn khách nước ngoài đến làm việc, tìm hiểu về công tác quản lý, các quy định chính sách liên quan và khả năng hợp tác đối với các lĩnh vực quản lý của Bộ.

Từ những kết quả đạt được trên đây, có thể nói, mặc dù có nhiều khó khăn, thách thức song với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo, với nỗ lực của đội ngũ cán bộ hợp tác quốc tế nói riêng và của toàn ngành TN&MT nói chung, cùng sự ủng hộ, giúp đỡ quý báu của các đối tác phát triển cùng với sự phát triển của ngành TN&MT trên tất cả các lĩnh vực QLNN, hoạt động hợp tác quốc tế của ngành cũng đã đánh dấu bước chuyển mình quan trọng về chủ động hội nhập, thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện của đất nước, qua đó nâng cao vai trò, vị thế và uy tín của Việt Nam nói chung và của ngành TN&MT nói riêng tại các diễn đàn, khuôn khổ hợp tác song phương, đa phương và quốc tế, góp phần quan trọng vào thành công chung của công tác QLNN về TN&MT.

Trong giai đoạn tiếp theo, bám sát định hướng phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước, định hướng phát triển chung của toàn ngành TN&MT, hoạt động hợp tác quốc tế ngành TN&MT sẽ tập trung vào các nhiệm vụ chính sau: Đổi mới hoạt động ngoại giao khí hậu theo hướng không chỉ vận động hỗ trợ kỹ thuật, nâng cao năng lực cho các bộ, ngành và địa phương mà phải kết nối mang đến các nhà đầu tư có công nghệ cao, công công nghệ sạch vào Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam thực hiện các mục tiêu và cam kết giảm phát thải, phù hợp với xu hướng chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo, vận động đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế và tiềm năng như điện gió trên bờ, năng lượng gió ngoài khơi, mặt trời, hay năng lượng xanh; tiếp tục đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tăng cường vai trò và tiếng nói của Việt Nam trong các khuôn khổ hợp tác quốc tế và trên diễn đàn quốc tế liên quan đến các lĩnh vực QLNN của Bộ TN&MT.

Hợp tác quốc tế ngành Tài nguyên và Môi trường tiến bước cùng quá trình hội nhập của đất nước

             Vụ Hợp tác quốc tế