Kiểm toán môi trường: “Giấy thông hành xanh” cho doanh nghiệp phát triển bền vững

Thứ ba, 21/5/2024, 14:39 (GMT+7)
logo Kiểm toán môi trường là một chế định mới do vậy Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao nhiệm vụ xây dựng hướng dẫn về kiểm toán môi trường tại cơ sở, sản xuất, kinh doanh dịch vụ. Trách nhiệm này đã được đưa ra tại Khoản 4 Điều 74 trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 nhằm mục đích xem xét, đánh giá có hệ thống, toàn diện hiệu quả quản lý môi trường, kiểm soát ô nhiễm của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.

Kiểm toán môi trường: “Giấy thông hành xanh” cho doanh nghiệp phát triển bền vững

Xu thế và định hướng

Tiếp thu kinh nghiệm thành công của quốc tế về kiểm toán môi trường (KTMT) được áp dụng đối với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhằm đánh giá mức độ hiệu quả sử dụng tiết kiệm tài nguyên, quản lý chất thải, kiểm soát ô nhiễm và BVMT, Luật BVMT năm 2020 đã bổ sung nội dung về kiểm toán môi trường nhằm điều chỉnh hoạt động kiểm toán trong nội bộ tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ do đơn vị tự thực hiện hoặc thông qua dịch vụ kiểm toán. Đồng thời, quy định kiểm toán Nhà nước về môi trường theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước và pháp luật có liên quan.

Nếu được ban hành tài liệu hướng dẫn này sẽ là cơ sở để các doanh nghiệp thực hiện báo cáo KTMT phù hợp với đặc trưng, đặc điểm riêng của mỗi ngành nghề, khu vực sản xuất. Nội dung tài liệu hướng dẫn về trình tự, thủ tục, các bước và phương pháp cần thiết để thực hiện KTMT tại doanh nghiệp cũng như các biểu mẫu chung trong báo cáo KTMT.

Đại diện nhóm soạn thảo tài liệu hướng dẫn kỹ thuật, ThS. Trần Hàn Việt, Viện Khoa học Môi trường, biển và hải đảo cho biết: Tại Việt Nam trong những năm qua, nội dung về KTMT đã được nghiên cứu tại một số viện nghiên cứu, trường đại học và triển khai áp dụng thí điểm tại một số cơ sở sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên, việc triển khai này còn mang tính đơn lẻ, chưa đồng bộ, chưa thống nhất và còn nhiều khó khăn do thiếu các hướng dẫn cụ thể cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ còn có những hạn chế nhất định. Với mục tiêu đưa nội dung KTMT trở thành một công cụ phục vụ quản lý môi trường, tại Điều 74, Luật BVMT 2020 có quy định chi tiết một số nội dung về KTMT. Đây là lần đầu tiên nội dung chi tiết về KTMT được ghi nhận trong Luật BVMT năm 2020. Việc luật hóa này cũng thể hiện rằng KTMT đang được xem là xu thế và là định hướng trong hoạt động quản lý môi trường tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong thời gian tới tại Việt Nam.

Tài liệu hướng dẫn kỹ thuật được xây dựng, ban hành nhằm mục đích cung cấp cho lãnh đạo quản lý, cán bộ phụ trách quản lý môi trường tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, các tổ chức, cá nhân kiến thức, thông tin chung về nội dung, quy trình và phương pháp để tự thực hiện hoạt động KTMT, từ đó các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có thể tự nghiên cứu và triển khai áp dụng trong thực tế.

Nhiều lợi ích khi thực hiện kiểm toán môi trường

Theo ThS. Trần Hàn Việt, Kiểm toán môi trường là khái niệm rộng, đa nghĩa tùy theo quy định của từng quốc gia, tổ chức quốc tế và tùy theo mục đích hoặc đối tượng cần kiểm toán. Theo ICC 1988 thì, KTMT là một công cụ quản lý bao gồm việc đánh giá một cách có hệ thống, theo định kỳ và khách quan về tổ chức quản lý môi trường và sự vận hành của các thiết bị các nhà máy, cơ sở vật chất với mục đích VMT thông qua: (i) trợ giúp quản lý, kiểm soát các hoạt động môi trường; (ii) đánh giá sự tuân thủ các chính sách của công ty, bao gồm việc tuân theo các tiêu chuẩn môi trường và các quy định bắt buộc. Hay theo Luật BVMT 2020 thì, KTMT là việc xem xét, đánh giá có hệ thống, toàn diện hiệu quả quản lý môi trường, kiểm soát ô nhiễm của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.

Kiểm toán môi trường có những đặc điểm: (i) Công cụ quản lý - KTMT được coi là một trong những công cụ quản lý nằm trong hệ thống kiểm soát nội bộ và chủ yếu được sử dụng để đánh giá và quản lý hoạt động môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. (ii) Đánh giá hoạt động môi trường - KTMT có thể được thực hiện cho nhiều mục đích, ví dụ, thực hiện tuân thủ pháp luật môi trường hoặc như một biện pháp trách nhiệm xã hội hoặc để đáp ứng một số yêu cầu chứng nhận. Mục đích chính của bất kỳ cuộc KTMT nào là đánh giá và kiểm soát tác động tiêu cực của các hoạt động kinh tế của một tổ chức đối với môi trường. KTMT xem xét kết quả hoạt động môi trường đối với một hoạt động hoặc dự án hiện có. Mục đích cơ bản của KTMT là giám sát một cách có hệ thống kết quả công tác BVMT trong tất cả các hoạt động hiện có của công ty. (iii) Có hệ thống, định kỳ - KTMT là một quá trình có hệ thống phải được lập kế hoạch, cấu trúc, tổ chức. KTMT là một phần của quá trình đánh giá và kiểm tra lâu dài, lặp đi lặp lại theo thời gian và được tiến hành theo các khoảng thời gian xác định trước theo kế hoạch. (iv) Lập thành văn bản - KTMT được thực hiện dựa trên các tài liệu và thông tin có thể xác minh được. Quá trình đánh giá được thiết kế với các bằng chứng sẵn có để đảm bảo rằng việc đánh giá được thực hiện theo các yêu cầu của hệ thống và theo cách thức đúng đắn.

Thực hiện KTMT mang lại những lợi ích cho cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ như: Giúp cơ sở phát hiện ra những vấn đề rủi ro liên quan tới sử dụng năng lượng, hóa chất, nguyên vật liệu, phế liệu, từ đó tìm ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên nhiên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất; giúp các cơ sở tính toán, kiểm tra, quản lý được thành phần và khối lượng chất thải phát sinh, từ đó giúp các cơ sở giảm chi phí cho việc xử lý chất thải, xử lý, khắc phục ô nhiễm; giúp các cơ sở rà soát, cải thiện việc tuân thủ các quy định pháp luật về BVMT, góp phần hỗ trợ các cơ sở thực hiện đầy đủ có trách nhiệm đối với môi trường và trách nhiệm đối với xã hội; góp phần giảm thiểu rủi ro, hỗ trợ cơ sở đánh giá việc tuân thủ chính sách, pháp luật về môi trường, từ đó tránh rủi ro bị truy tố và phạt tiền do vi phạm các quy định, chính sách pháp luật về BVMT. Đặc biệt là các cơ sở có tiềm năng gây ONMT nghiêm trọng; Khuyến khích cải tiến liên tục, phát hiện cả điểm mạnh và điểm yếu trong hệ thống quản lý môi trường và vận hành khác liên quan đến môi trường của một cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ một cách thường xuyên. Do đó, nó khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cải tiến liên tục hệ thống quản lý môi trường; nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân viên về trách nhiệm và chính sách môi trường. KTMT thể hiện cam kết của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đối với việc BVMT của cán bộ, nhân viên. KTMT nâng cao mức độ thông tin để sử dụng trong các tình huống ứng phó khẩn cấp. KTMT cũng góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, nhân viên về các chính sách, cam kết về BVMT.

Sự cần thiết phải thực hiện kiểm toán môi trường 

Mới đây, tại Hội thảo tham vấn Hướng dẫn kỹ thuật hoạt động tự kiểm toán môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ do Viện Khoa học Môi trường, biển và hải đảo tổ chức, rất nhiều đại biểu đến từ các bộ, ngành và các giảng viên tại một số trường Đại học, các chuyên gia Nhật Bản có mặt tại Hội thảo đều đồng tình về sự cần thiết của kiểm toán môi trường ở nước ta.

Thực tế đã cho thấy, hội nhập và phát triển kinh tế quốc tế nói chung, Việt Nam nói riêng đang phải đối mặt với nhiều thách thức như: ONMT, suy giảm sinh học và biến đổi khí hậu khắc nghiệt hơn. Trước những mối nguy và thách thức như vậy, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách quản lý và BVMT. Theo đó, mọi đơn vị, tổ chức, cá nhân đều phải có trách nhiệm thực hiện tốt để bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường, để làm tốt việc này cần phải có các chế tài nghiêm minh và hướng dẫn kỹ thuật cụ thể. Đồng thời, thông qua việc triển khai công tác KTMT, Chính phủ sẽ thấy được mức độ tuân thủ các chế độ, chính sách hiện hành về quản lý và BVMT của đơn vị được kiểm toán, phát hiện được những tồn tại, bất cập trong việc thực hiện các quy định về BVMT, như tồn tại trong việc lập, phân bổ và giao dự toán; những tồn tại trong việc chấp hành chế độ thu, chi, quản lý, sử dụng kinh phí sự nghiệp môi trường; và tồn tại trong việc thực hiện kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ONMT nghiêm trọng.

Kiểm toán môi trường cũng chỉ ra những bất cập của các văn bản pháp luật liên quan đến việc quản lý, sử dụng kinh phí sự nghiệp môi trường. Trên cơ sở những tồn tại, bất cập đã phát hiện được, kiểm toán viên sẽ đưa ra kiến nghị cụ thể đối với các đơn vị được kiểm toán và kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan như: Quốc hội, Chính phủ, Bộ TN&MT, Bộ Tài chính.

Những kiến nghị đó có tác động đáng kể để cải thiện tình hình về quản lý và BVMT cả trên góc độ về xây dựng và thực hiện chính sách, chế độ phù hợp; về quản lý và BVMT nói chung, nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường nói riêng, đảm bảo sự phát triển bền vững của từng đơn vị cũng như toàn bộ nền kinh tế. Quan trọng hơn, chúng sẽ góp phần tăng cường năng lực quản lý và BVMT của các cơ quan chức năng.

Kiểm toán môi trường còn giúp tăng cường nhận thức và hành động về BVMT của lãnh đạo và nhân viên trong đơn vị, thúc đẩy đơn vị đó phát triển bền vững và BVMT chung theo hướng sản xuất, xanh, sạch hơn.

Qua kiểm toán môi trường sẽ đưa ra kết luận, những con số cụ thể về hạn chế hoặc sai phạm trong quá trình và kết quả quản lý môi trường của đơn vị, chỉ ra những bất cập như rò rỉ khí đốt, rò rỉ điện,... gây nên lãng phí năng lượng và ONMT, hay vấn đề chất thải công nghiệp chưa được xử lý đúng yêu cầu. Những tồn tại đó vừa dẫn đến tăng chi phí, giảm lợi nhuận vừa dẫn đến ONMT và có thể doanh nghiệp phải chịu thêm khoản tiền phạt lớn hay ảnh hưởng xấu đến uy tín và vị thế cạnh tranh của đơn vị. Từ đó, đơn vị được kiểm toán sẽ hiểu rõ hơn về mức độ tuân thủ các chế độ, chính sách hiện hành về quản lý và BVMT trong quá trình hoạt động của đơn vị, xác định được những tồn tại cụ thể trong việc thiết kế và vận hành các hệ thống quản lý môi trường của đơn vị mình.

Những kết luận và kiến nghị của kiểm toán viên sẽ giúp cho đơn vị nhận thức rõ hơn tác dụng kép về kinh tế “giảm chi phí, tăng uy tín và hiệu quả hoạt động” của việc BVMT trong quá trình hoạt động. Theo đề xuất của kiểm toán viên, đơn vị có thể thiết kế quy trình sản xuất hợp lý hơn để tiết kiệm năng lượng và giảm thiểu chất thải, thay thế bằng loại nguyên vật liệu phù hợp hơn để giảm thiểu chất thải rắn, chất thải khí, sử dụng trang thiết bị phù hợp để giảm thiểu phế liệu, phế thải,...

Việc đánh giá và kết luận hiện trạng môi trường của doanh nghiệp đối với việc đảm bảo các yêu cầu cơ bản về sức khỏe con người, có thể sẽ đưa ra những cảnh báo về ONMT đã được phát hiện trong quá trình kiểm toán còn giúp ban quản lý và cán bộ công nhân viên trong đơn vị nhận thức rõ nguy cơ ONMT sẽ ảnh hưởng xấu đến chính bản thân họ như nguy cơ bệnh nghề nghiệp, nguy cơ suy giảm sức khỏe, giảm sút năng suất lao động ngay trong đơn vị, đồng thời cũng ảnh hưởng xấu đến môi trường chung và sức khỏe cộng đồng. Qua đó, mọi người trong đơn vị được kiểm toán sẽ quan tâm hơn đến việc tìm kiếm và thực hiện những giải pháp hữu hiệu hơn nhằm đảm bảo sản xuất sạch hơn để BVMT (như xây dựng và thực hiện những thủ tục quản lý, kiểm soát tiết kiệm năng lượng, quản lý và xử lý chất thải, chú ý đến trang thiết bị có tính năng tốt đối với môi trường, sức khỏe và sự an toàn, có thể tái chế nguyên vật liệu khi có cơ hội, có thể sử dụng các loại vật liệu thân thiện hơn với môi trường,...), từ đó tạo ra nếp văn hóa đẹp “vì lợi ích của doanh nghiệp và cộng đồng” trong đơn vị. Đây cũng là giải pháp thiết thực để tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn đơn vị, đồng thời giúp doanh nghiệp có được “Giấy thông hành xanh” đối với các sản phẩm của mình, tăng uy tín trên thương trường, giúp cho đơn vị phát triển bền vững, góp phần BVMT chung ở Việt Nam, khu vực và trên toàn thế giới.

Thực tế ở Việt Nam cho thấy, sự tự nguyện thực hiện KTMT và công bố thông tin về môi trường còn rất hạn chế. Nhiều vụ việc nghiêm trọng được giải quyết theo hướng tạm thời; việc kiểm tra về môi trường chủ yếu được thực hiện thông qua các báo cáo đánh giá tác động môi trường mang tính hình thức của doanh nghiệp; chưa có sự chặt chẽ của các bộ, ngành; các chế tài luật pháp về môi trường chưa thực sự hiệu quả, chủ yếu dừng ở xử phạt hành chính; chưa xây dựng được một ngân hàng dữ liệu về môi trường quốc gia làm cơ sở cho các đối chiếu và kiến nghị của kiểm toán viên; các vấn đề đào tạo KTMT chưa được triển khai hiệu quả; các quy định hoặc hướng dẫn liên quan đến KTMT trong các tổ chức, doanh nghiệp còn hạn chế, ảnh hưởng đến thông tin phục vụ cho KTMT. Như vậy, trong thời gian tới, việc thực hiện KTMT trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ sẽ được áp dụng và vì quy định này rất quan trọng với chính môi trường và cuộc sống chúng ta và tương lai con cháu mai sau và của cả nền kinh tế, hoạt động KTMT vô cùng cần thiết trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.

DIỆP ANH
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 7 năm 2024