Kinh nghiệm quốc tế về quản lý và bảo vệ môi trường di sản thiên nhiên và đề xuất cho Việt Nam

Thứ sáu, 7/1/2022, 12:42 (GMT+7)
logo Nhằm xác định rõ các khu vực có giá trị trường tồn đối với sự phồn thịnh của quốc gia, việc quy định về di sản thiên nhiên (DSTN) trong Luật Bảo vệ môi trường 2020 là một cách tiếp cận toàn diện trong xu thế phát triển của đất nước và quốc tế. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 giao cho Chính phủ quy định chi tiết về điều tra, đánh giá, quản lý và bảo vệ môi trường di sản thiên nhiên tại Điều 21. Vì vậy, việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế để làm cơ sở cho việc đề xuất nội dung quản lý di sản thiên nhiên phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam và xu thế thế giới là rất cần thiết.

Kinh nghiệm quốc tế về quản lý và bảo vệ môi trường di sản thiên nhiên và đề xuất cho Việt Nam

Vịnh Hạ Long - Di sản thiên nhiên thế giới tại Việt Nam.

Kinh nghiệm quốc tế về quản lý di sản thiên nhiên

Công ước Di sản thế giới: Trên thế giới, việc quản lý các DSTN được Đại hội đồng Liên hợp quốc chấp nhận thông qua “Công ước di sản thế giới 1972” vào ngày 16/11/1972. Đây là Công ước quốc tế đầu tiên gắn khái niệm bảo vệ thiên nhiên với bảo vệ di sản văn hóa, mang đến một cách tiếp cận mới với những cơ sở pháp lý cần thiết, bảo đảm mối quan hệ cân bằng, hài hòa giữa con người với nhiên nhiên, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.

Theo Điều 4 của Công ước Di sản, mỗi một quốc gia tham gia Công ước này công nhận rằng trách nhiệm bảo đảm việc xác định, bảo vệ, bảo tồn, tôn tạo và truyền lại cho các thế hệ tương lai di sản văn hóa và tự nhiên. Mỗi quốc gia phải nỗ lực hành động tối đa cho mục đích trên bằng những nguồn lực mà quốc gia sẵn có và bằng cả sự viện trợ và hợp tác quốc tế. Việc bảo vệ và quản lý các di sản thế giới cần bảo đảm giá trị nổi bật toàn cầu, gồm các điều kiện về tính toàn vẹn và/hoặc xác thực tại thời điểm công nhận được duy trì và tăng cường trong tương lai, bao gồm:

Phải được bảo vệ và quản lý về luật pháp, thể chế và/hoặc truyền thống một cách đầy đủ và dài hạn để đảm bảo gìn giữ chúng. Sự bảo vệ này cần bao hàm cả những đường ranh giới được phân định thoả đáng. Đồng thời, các Quốc gia thành viên cần chứng tỏ có sự bảo vệ đầy đủ ở cấp độ quốc gia, khu vực, tỉnh và/hoặc truyền thống đối với di sản đề cử.

Các biện pháp bảo vệ về luật pháp ở cấp quốc gia và địa phương cần đảm bảo sự tồn tại của di sản và bảo vệ nó trước sự phát triển và biến đổi có tác động tiêu cực tới giá trị nổi bật toàn cầu, hay tính toàn vẹn và/hoặc tính xác thực của di sản. Các quốc gia thành viên cũng cần phải đảm bảo thực hiện đầy đủ và hiệu quả những biện pháp đó.

Kinh nghiệm quốc tế về quản lý và bảo vệ môi trường di sản thiên nhiên và đề xuất cho Việt Nam

Di sản Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng.

Công ước Ramsar: Công ước Ramsar đã khuyến nghị các quốc gia đề cử các vùng đất ngập nước (ĐNN) quan trọng, đặc biệt là nơi cư trú của các loài chim nước. Công ước kêu gọi các quốc gia tăng cường bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước, duy trì các đặc tính sinh thái của vùng đất ngập nước và phân vùng khu Ramsar theo phân vùng khu dự trữ sinh quyển thế giới, gồm:

Khu vực vùng: Có thể là vùng có giá trị ĐDSH cao cần bảo vệ nghiêm ngặt và bảo vệ lâu dài cảnh quan, hệ sinh thái và các loài sống trong đó. Vùng lõi không có các hoạt động của con người, trừ hoạt động nghiên cứu, quan trắc và trong một số trường hợp có thể có hoạt động khai thác truyền thống do cộng đồng địa phương đã thực hiện trước khi thành lập khu Ramsar, khu bảo tồn.

Khu vực vùng đệm: Là các khu vực ĐNN được xác định ranh giới bao quanh vùng lõi khu bảo tồn đất ngập nước/khu ĐNN quan trọng với mục đích bảo vệ vùng lõi và được phép tiến hành các hoạt động nghiên cứu, đào tạo về đất ngập nước, đa dạng sinh học đất ngập nước,… hoặc tiến hành các giải pháp phục hồi các hệ sinh thái/kiểu đã bị suy thoái trong khu vực này.

Khu vực chuyển tiếp: Là các vùng ĐNN được xác định để phục vụ các sinh kế của cộng đồng dân cư sống bên trong và xung quanh khu bảo tồn với mục tiêu sử dụng bền vững tài nguyên khu Ramsar. Vùng này có vai trò kinh tế và xã hội rất quan trọng đối với phát triển khu vực bởi đây chính là khu vực mà người dân, các tổ chức bảo tồn, các nhà khoa học, các tổ chức dân sự, các nhóm văn hóa, các doanh nghiệp tư nhân và các bên liên quan khác sẽ nhất trí cùng nhau quản lý và phát triển bền vững nguồn tài nguyên của khu vực vì lợi ích của những người sống tại đó.

Kinh nghiệm tại Oxtraylia: Oxtraylia (Úc) là quốc gia thành viên của Công ước Di sản thế giới nên việc xây dựng các quy định về quản lý DSTN và các đối tượng tự nhiên có giá trị về môi trường, đa dạng sinh học,… đã được triển khai và cụ thể tại Đạo luật BVMT và Bảo tồn ĐDSH 1999 của Úc (Đạo luật EPBC).

Để đảm bảo sự liên tục trong việc bảo vệ một địa điểm Di sản Quốc gia cần chuẩn bị một kế hoạch quản lý, trong đó xác định các giá trị di sản của địa điểm sẽ được bảo vệ hoặc bảo tồn như thế nào. Các kế hoạch cần phải phù hợp với các nguyên tắc quản lý Di sản Quốc gia. Khi địa điểm Di sản Quốc gia thuộc một tiểu bang hoặc vùng lãnh thổ, Chính phủ Úc phải cố gắng đảm bảo rằng một kế hoạch quản lý được chuẩn bị và thực hiện với sự hợp tác của chính phủ tiểu bang hoặc vùng lãnh thổ có liên quan. Bộ trưởng Bộ Môi trường chịu trách nhiệm chuẩn bị kế hoạch quản lý các địa điểm Di sản Quốc gia trong các khu vực thuộc Khối thịnh vượng chung. Các kế hoạch được yêu cầu phải được xem xét 5 năm một lần.

Tại Nhật Bản: Ở Nhật Bản, để quản lý các khu DSTN một cách hợp lý và suôn sẻ, cần đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hành chính quản lý các hệ thống bảo tồn nêu trên. Với mục đích này, mỗi khu DSTN Thế giới đã thành lập Ủy ban liên vùng. Ủy ban này có sự tham gia của Bộ Môi trường, Cơ quan Lâm nghiệp và các tổ chức liên quan khác. Mỗi DSTN đều có Kế hoạch quản lý và trong kế hoạch sẽ xác định rõ các chính sách cơ bản để vận hành hệ thống và thúc đẩy các chương trình. Việc xây dựng Kế hoạch này có xem xét các ý kiến đã thu được trong các cuộc họp với người dân địa phương và cũng như tham khảo ý kiến của các cơ quan chức năng. Tại mỗi khu DSTN, các hoạt động quản lý bao gồm tuần tra, hoạt động ưu tiên được thúc đẩy, phổ biến thông tin, giáo dục môi trường và nghiên cứu và giám sát được thực hiện dựa trên Kế hoạch quản lý thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hành chính có liên quan và các tổ chức liên quan.

Kinh nghiệm quốc tế về quản lý và bảo vệ môi trường di sản thiên nhiên và đề xuất cho Việt Nam

Di sản Cao nguyên đá Đồng Văn.

Đề xuất quy định quản lý và bảo vệ môi trường DSTN cho Việt Nam

Trên cơ sở yêu cầu của các hiệp ước quốc tế mà Việt Nam là quốc gia thành viên và kinh nghiệm của một số quốc gia trong quản lý DSTN, một số đề xuất về quản lý và bảo vệ môi trường DSTN cho Việt Nam như sau:

Nguyên tắc tiếp cận xây dựng các quy định quản lý DSTN bao gồm: Tiếp cận toàn diện/tổng thể, hệ thống về đối tượng DSTN; đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất trong hệ thống pháp luật hiện hành và phù hợp với quy định tại các hiệp ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tiếp cận cảnh quan và hệ sinh thái trong xây dựng quy định nội dung DSTN; tiếp cận liên ngành, đồng thời đảm bảo phát huy chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của Bộ TN&MT trong BVMT, bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH.

Kinh nghiệm quốc tế về quản lý và bảo vệ môi trường di sản thiên nhiên và đề xuất cho Việt Nam

Hệ thống hang động ở Hạ Long rất đẹp và phong phú như: động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, hang Sửng Sốt,...

Quy định về quản lý và bảo vệ môi trường DSTN cho Việt Nam:

Nội dung về quản lý và BVMT cần được quy định một cách toàn diện cho hệ thống các DSTN của Việt Nam, theo đó Chính phủ thống nhất QLNN về DSTN trên toàn quốc và giao một cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện. Các DSTN đã được thành lập và quản lý theo pháp luật chuyên ngành trước khi Luật BVMT 2020 có hiệu lực thi hành, thực hiện theo quy định pháp luật chuyên ngành. Đối với các DSTN thành lập mới, cần có quy định cụ thể về chế độ quản lý đảm bảo hài hòa và phù hợp với chủ trương, chính sách pháp luật của nhà nước và yêu cầu thực tiễn của từng địa phương.

Các DSTN cần được điều tra, đánh giá định kỳ để theo dõi diễn biến môi trường và các giá trị thiên nhiên cần bảo vệ, bảo tồn theo tiêu chí xác lập, công nhận DSTN; các hoạt động có ảnh hưởng đến DSTN cần đánh giá tác động môi trường theo quy định pháp luật về BVMT nhằm kịp thời kiểm soát các tác động tiêu cực đến DSTN.

Các DSTN cần được phân cấp theo quy mô diện tích, phạm vi ảnh hưởng, ý nghĩa, tầm quan trọng về các giá trị của thiên nhiên nhằm đảm bảo nguồn lực và quản lý hiệu quả. Các giá trị cốt lõi của thiên nhiên và ĐDSH của DSTN phải được bảo vệ, bảo tồn nguyên vẹn; dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên của DSTN phải được duy trì, phát triển và sử dụng bền vững.

Các DSTN được xác định vị trí, diện tích, ranh giới và thực hiện phân vùng (vùng lõi, vùng đệm và vùng chuyển tiếp) để phục vụ cho công tác quản lý, đảm bảo hài hòa giữa mục tiêu bảo tồn và phát triển bền vững nhằm góp phần thúc đẩy tăng trưởng xanh tại Việt Nam.

Việc quản lý và BVMT về DSTN được ưu tiên sử dụng nguồn lực và thực hiện theo điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết. Trong đó, các DSTN cần phải có quy chế và kế hoạch quản lý, BVMT nhằm đảm bảo duy trì tính toàn vẹn hệ sinh thái và BVMT, bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH hiệu quả.

Khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân và cộng đồng đầu tư, thành lập, quản lý, sử dụng và phát triển bền vững các DSTN. Ban quản lý hoặc cơ quan, tổ chức được giao quản lý DSTN phải đáp ứng tiêu chí về năng lực quản lý và BVMT, có trách nhiệm tổ chức, huy động lực lượng và nguồn lực, quản lý và BVMT DSTN theo quy định của pháp luật; được bố trí nguồn lực từ NSNN cho các hoạt động quản lý và BVMT DSTN; tổ chức giám sát, kịp thời ngăn chặn hành vi xâm hại DSTN.

Tuân thủ các yêu cầu khác về BVMT, kiểm soát các tác động tới môi trường, ĐDSH DSTN theo quy định pháp luật và quy định của các điều ước quốc tế về môi trường và ĐDSH mà Việt Nam đã ký kết.

Kinh nghiệm quốc tế đã cho thấy tầm quan trọng của các DSTN và yêu cầu quản lý, bảo vệ hiệu quả các giá trị của chúng trước các áp lực của phát triển, tác động của BĐKH toàn cầu. Qua đó, Việt Nam là quốc gia của thành viên của các công ước quốc tế cần phải thực thi các yêu cầu của công ước và nội luật hóa thành quy định pháp luật nhằm bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH, góp phần quản lý và bảo vệ hiệu quả DSTN tại Việt Nam, đồng thời tăng cường phát huy giá trị của các dịch vụ hệ sinh thái của các DSTN đối với phát triển KT-XH đất nước.

TS. TRẦN ĐĂNG QUY

Trường Đại học Khoa học tự nhiên

ThS. ĐẶNG THỊ TƯƠI

Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học