
Nâng tầm nhận thức về bảo vệ môi trường
Nhận thức được tầm quan trọng về BVMT trong phát triển bền vững của địa phương, những năm qua cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành tỉnh Lai Châu đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, cụ thể hóa và quyết liệt thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về BVMT và đạt được những kết quả quan trọng, thể hiện trên các mặt:
Nhận thức của cấp ủy, chính quyền các cấp, cán bộ, đảng viên, nhân dân các dân tộc trong tỉnh về BVMT được nâng lên. Công tác bảo vệ, phát triển rừng được quan tâm triển khai thực hiện, đến nay tỷ lệ che phủ rừng trên địa bàn tỉnh đạt trên 50%. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, quản lý và khai thác sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên nước, nhất là các công trình thủy điện trên địa bàn theo phương châm: Vừa khai thác tốt tiềm năng thủy điện, vừa đảm bảo môi trường; tăng cường quản lý nguồn tài nguyên khoáng sản, nhất là nguồn khoáng sản sản xuất vật liệu xây dựng; phòng tránh lãng phí nguồn tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường (ONMT); từng bước hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung và sản xuất nông nghiệp công nghệ cao gắn với BVMT, sản xuất nông nghiệp sạch, an toàn, góp phần nâng cao giá trị hàng hóa nông nghiệp và phòng, chống ONMT. Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai đồng bộ, đạt được những kết quả tích cực, các tiêu chí về môi trường được chú trọng triển khai thực hiện khá hiệu quả. Vấn đề môi trường đô thị, nông thôn được quan tâm; chương trình cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn được các cấp, các ngành và người dân thực hiện; các địa phương đã quan tâm đầu tư hệ thống thu gom và xử lý rác thải, thường xuyên kiểm soát ONMT tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Thực hiện tốt các hoạt động quan trắc môi trường, điều tra, thống kê các nguồn nước thải vào lưu vực sông các sông trên địa bàn (sông Đà, sông Nậm Mu, sông Nâm Na). Hiện nay, 100% rác thải y tế, 94% rác thải sinh hoạt tại đô thị được thu gom, xử lý; 61% số xã đã thu gom tập trung rác thải sinh hoạt; 8/8 huyện, thành phố có bãi chôn lấp rác thải. Tỉnh đã tiếp nhận và quản lý, sử dụng hiệu quả 2 trạm quan trắc giám sát nguồn nước trên biên giới tại xã Ka Lăng (Mường Tè) và Ma Ly Pho (Phong Thổ),...
Ông Đỗ Văn Xiêng, Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Lai Châu cho biết: Hàng năm, Sở TN&MT thực hiện đôn đốc các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn tỉnh thực hiện các nội dung về quản lý, BVMT theo đúng quy định, kiểm tra, kiểm soát chấn chỉnh kịp thời. Việc đánh giá chất lượng môi trường trên địa bàn tỉnh được thực hiện thường xuyên hàng năm, mỗi năm thực hiện quan trắc môi trường 2 lần. Qua kết quả quan trắc môi trường năm trên địa bàn tỉnh, chất lượng môi trường sống được đảm bảo, không có cơ sở gây ONMT nghiêm trọng, không có khu vực suy thoái môi trường, không có điểm nóng về môi trường.
Công tác thẩm định, báo cáo đánh giá tác động môi trường ngày càng chặt chẽ, thực hiện đảm bảo theo thủ tục hành chính đã ban hành của UBND tỉnh; các dự án có nguy cơ ONMT lớn thận trọng xem xét ngay từ khâu xét chủ trương đầu tư; đã thực hiện hiệu quả kiểm soát tốt các nguy cơ ONMT ngay từ bước đầu tiên.
Tuy nhiên, hoạt động BVMT của tỉnh vẫn còn một số hạn chế: Nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền địa phương, nhất là cơ sở và một bộ phận người dân về môi trường và BVMT chưa đầy đủ, ý thức, trách nhiệm trong việc BVMT chưa cao. Công tác quản lý đất đai, khoáng sản, môi trường có mặt chưa đáp ứng yêu cầu. Một số nơi vẫn để xảy ra tình trạng chặt phá rừng; khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng thiếu bền vững, thậm chí còn vi các quy định của pháp luật về khai thác tài nguyên, khoáng sản. Chất lượng một số tiêu chí xây dựng nông thôn mới ở một số xã chưa bền vững, nhất là tiêu chí về môi trường một số xã vẫn còn thấp. Việc ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp còn chậm, sản xuất nông nghiệp thiếu bền vững (năng suất, chất lượng và giá trị sử dụng trên diện tích đất).
Công tác phòng, chống ONMT còn nhiều hạn chế. Việc quản lý chất thải rắn, rác thải sinh hoạt, nguy hại; rác thải, chất thải sản xuất nông nghiệp có lúc, có nơi chưa chặt chẽ; công tác thu gom chất thải rắn sinh hoạt chỉ mới chủ yếu tập trung ở khu vực đô thị, chưa có hoặc rất ít hoạt động dịch vụ, vận chuyển, xử lý rác thải tại khu vực nông thôn. Môi trường sống của một bộ phận nhân dân vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa còn bị ô nhiễm. Các dự án điều tra cơ bản về môi trường, cơ sở dữ liệu môi trưởng phục vụ công tác quản lý, định hướng phát triển còn hạn chế; cơ sở, vật chất, thiết bị phục vụ công tác phòng, chống ONMT còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; việc kiểm soát hoạt động sản xuất, sả thải của doanh nghiệp có nơi còn hạn chế,...
Đặc biệt, trong các năm: 2019, 2020, 2021, tỉnh Lai Châu đã phát động trên toàn hệ thống chính trị về công tác phòng chống rác thải nhựa, đến nay, có 41 cơ quan, đơn vị trên toàn tỉnh ban hành kế hoạch - cam kết chống rác thải nhựa, các địa phương tuyên truyền đến tổ chức, nhân dân trên địa bàn thực hiện các biện pháp chống rác thải nhựa trong sinh hoạt hàng ngày, qua đó, ý thức, nhận thức của nhân dân trên địa bàn tỉnh đã nâng lên rõ rệt.
Tăng cường các giải pháp bảo vệ môi trường
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra: “Huy động các nguồn lực xây dựng tỉnh Lai Châu phát triển nhanh và bền vững”; để thực hiện thắng lợi mục tiêu này, vấn đề đặt ra đối với các cấp, các ngành và mọi người dân cần tập trung thực hiện tốt công tác BVMT trọng tâm là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền các cấp, của cán bộ, đảng viên, nhân dân các dân tộc về ý nghĩa tầm quan trọng của việc BVMT vừa nâng cao chất lượng cuộc sống, vừa đảm bảo cho sự phát triển bền vững của tỉnh. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp; sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, mỗi người dân trong việc quản lý, BVMT; sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, năng lượng; làm trong sạch, lành mạnh môi trường sống; thực hiện phân loại rác thải tại nguồn và thu gom rác, hạn chế sử dụng đồ nhựa dùng một lần. Thực hiện tốt phương châm trong BVMT “Nói toàn cầu, làm địa phương”; ý thức, hành động của mỗi cá nhân trong sinh hoạt hằng ngày sẽ tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, to lớn trong hoạt động BVMT, quyết định đến sự thành công trong quản lý, BVMT.
Chú trọng phát triển, ứng dụng, chuyển giao khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp; từng bước phát triển, ứng dụng công nghệ cao để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị sản phẩm nông nghiệp; nhất là kỹ thuật bảo quản, đảm bảo an toàn thực phẩm; phát triển các mô hình sản xuất hữu cơ, sản xuất nông sản sạch nhằm phát triển sản xuất hàng hóa có lợi thế theo xu thế của thị trường. Ưu tiên ứng dụng công nghệ mới; công nghệ tiết kiệm năng lượng; công nghệ sản xuất sạch hơn, sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư, ưu tiên các dự án sử dụng công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường, công nghệ sạch; thực hiện tốt công tác phòng ngừa, kiểm soát nguồn gây ONMT, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Tăng cường quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; tập trung khôi phục và khoanh nuôi tái sinh rừng phòng hộ, đẩy mạnh phát triển rừng sản xuất; nâng cao năng lực phòng, chống cháy rừng; đầu tư cải tạo kết cấu hạ tầng phục vụ tốt công tác bảo vệ và phát triển rừng. Tăng cường công tác quản lý tài nguyên, khoáng sản; việc khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng đảm bảo theo đúng quy hoạch và được cấp phép theo tinh thần tiết kiệm, hiệu quả.
Tập trung xây dựng nông thôn mới phát triển toàn diện, bền vững, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và BVMT sống của người dân. Chú trọng phát triển du lịch, phát triển sản phẩm phục vụ du lịch gắn với BVMT. Quản lý chặt chẽ xây dựng đô thị theo quy hoạch; rà soát, điều chỉnh, quy hoạch đô thị đáp ứng chiến lược phát triển KT-XH của tỉnh. Tiếp tục đầu tư, từng bước hoàn thiện hệ thống hạ tầng đô thị theo quy hoạch, nhất là đảm bảo hệ thống cấp nước sạch đô thị và vùng phụ cận, phấn đấu 99% dân số đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung. Xây dựng đồng bộ hệ thống thoát nước đô thị; quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải, rác thải rắn và phát triển cây xanh ở các đô thị. Quản lý chặt chẽ quy hoạch kiến trúc đối với tất cả các đô thị gắn với xây dựng nếp sống văn minh đô thị. Tăng cường quản lý xây dựng, phát triển các điểm dân cư nông thôn tập trung, khu dân cư thôn bản, không để phát triển tự do, rải rác, khó khăn về hạ tầng thiết yếu; đồng thời coi trọng việc BVMT vùng nông thôn.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác BVMT cần quan tâm đầu tư cơ sở, vật chất, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Tiếp tục tăng chi ngân sách đảm bảo tỷ lệ 1% ngân sách nhà nước dành cho công tác BVMT và tăng dần tỷ lệ theo tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa hoạt động BVMT, phát huy sức mạnh của cộng đồng trong giám sát, phản biện xã hội và huy động nguồn lực để BVMT. Tăng cường phối hợp với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) trong hoạt động kiểm soát chất lượng môi trường, nguồn nước qua biên giới. Duy trì hoạt động quan trắc môi trường, xây dựng cơ sở dữ liệu môi trường để dự báo và xử lý kịp thời các vùng, điểm có nguy cơ gây ONMT; thực hiện các dự án điều tra, đánh giá chất thải để xây dựng cơ sở dữ liệu về môi trường, phục vụ công tác quản lý, định hướng phát triển.
ĐẶNG NGỌC THẠCH
Ban Tuyên giáo tỉnh Lai Châu