
Ảnh minh họa
Luật Tài nguyên nước của Cộng hòa Pháp
Nước được coi là một phần di sản chung của quốc gia. Vì vậy, bảo vệ, sử dụng và phát triển nguồn nước phải được đặt trong việc phục vụ các lợi ích chung và tôn trọng sự cân bằng của các nguồn tài nguyên thiên nhiên nên pháp luật về TNN được quan tâm từ rất sớm. Nguyên tắc chung về quản lý TNN tại Pháp là quản lý hài hòa các nguồn tài nguyên thiên nhiên, quản lý TNN theo LVS. Việc quản lý hài hòa TNN nhằm các mục tiêu: Phòng ngừa, bảo vệ hệ sinh thái thủy sinh, vùng đất ngập nước, nước mặn, nước lợ; chống ô nhiễm do tháo nước và những hoạt động khác làm hủy hoại đến nguồn nước hoặc làm biến đổi tính chất vật lý, hóa học, sinh vật học đối với nước mặt, nước dưới đất, dưới biển; phục hồi chất lượng và tái tạo các nguồn nước; phát triển và bảo vệ nguồn nước tự nhiên; làm tăng giá trị kinh tế của nước và phân bố nguồn nước bằng việc thu tiền nước để sử dụng vào việc cấp nước và xử lý ô nhiễm nguồn nước.
Nguyên tắc quản lý hài hòa TNN nghĩa là phải đảm bảo thỏa mãn hoặc dung hòa những yêu cầu trong quá trình sử dụng nước hoặc trong các hoạt động liên quan đến nguồn nước, đó là: Bảo vệ sức khỏe cộng đồng, bảo vệ sự trong lành cộng đồng và việc tiêu thụ nước sạch của nhân dân; bảo đảm về mặt sinh thái, đặc biệt là liên quan đến nghề nuôi cá; giữ gìn nguồn nước và dòng chảy tự nhiên của nước nhưng vẫn đảm bảo chống lại được lũ lụt; không làm ảnh hưởng đến các hoạt động: Nông nghiệp, nghề cá, về văn hóa biển, thể thao, du lịch, bảo vệ cảnh quan, bảo đảm sự vui chơi giải trí và những hoạt động khác của con người.
Nội dung QLNN được xác định qua các hoạt động: Ban hành văn bản pháp luật, quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn về TNN; quy hoạch nguồn nước (là nội dung quan trọng nhất của hoạt động QLNN) thể hiện ở việc lập bản đồ quy hoạch và quản lý nước. Bản đồ quy hoạch và quản lý nước phải gồm các nội dung: Mục đích chung của việc sử dụng nước, đánh giá nguồn nước, bảo tồn số lượng và chất lượng nước mặt, nước dưới đất; quy định các biện pháp cần thiết trong trường hợp có nguy cơ đe dọa đến đời sống công dân, gây hại cho chất lượng nước và dòng chảy; các hình thức phạt, mức phạt trong trường hợp không tuân thủ các quy định về bảo vệ và khai thác nguồn nước.
Trong mô hình tổ chức quản lý TNN, Ủy ban LVS và Ban quản lý nước cấp vùng là những chủ thể có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, hai cơ quan này chỉ là cơ quan quản lý về chuyên môn, không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đây là 1 điểm khác biệt với QLNN của Việt Nam, vì ở Việt Nam, cơ quan QLNN vừa có thẩm quyền soạn thảo, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, vừa có thẩm quyền quản lý về mặt chuyên môn đối với những vấn đề liên quan đến TNN.
Luật Tài nguyên nước Liên bang Nga
Bộ luật về nước của Liên bang Nga được Đu-ma Quốc gia Nga thông qua ngày 12/4/2006, Hội đồng Liên bang phê chuẩn ngày 26/5/2006 và Tổng thống Putin ký ban hành ngày 3/06/2006, gồm 7 chương và 69 điều, quy định chi tiết quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Liên bang, cơ quan quyền lực nhà nước thuộc các chủ thể hình thành Liên bang, cơ quan tự quản địa phương trong sử dụng và bảo vệ nguồn nước. Nội dung các quy định tập trung vào sử dụng, khai thác, bảo vệ một cách hiệu quả các nguồn nước thuộc mọi hình thức sở hữu; thực hiện kiểm tra, giám sát các cấp; ban hành các tiêu chuẩn chất lượng, các quy tắc liên quan đến sử dụng, bảo vệ nguồn nước; thực hiện các biện pháp phòng tránh, khắc phục thiệt hại do nước gây ra, tổ chức việc quản lý, thu phí sử dụng nước,… theo dõi, đánh giá và dự báo về các thay đổi tình trạng của các nguồn nước thuộc mọi hình thức sở hữu.
Các lưu vực là đơn vị quản lý cơ bản trong sử dụng và bảo vệ nguồn nước. Các lưu vực này được hình thành từ các LVS và các nguồn nước dưới đất, các vùng biển gắn liền với các LVS này. Theo quy định của Bộ luật Nước, hiện nay Liên bang Nga có 20 LVS được đặt tên cụ thể theo tên gọi của các sông hoặc biển liên quan, ví dụ, lưu vực Ban Tích, Sông Đông, A mua,… Phạm vi địa giới của các lưu vực này do Chính phủ Liên bang quy định.
Hội đồng lưu vực được thành lập để tư vấn sử dụng, bảo vệ các nguồn nước ở các lưu vực, với thành phần bao gồm: Đại diện cơ quan hành pháp được Chính phủ Liên bang ủy quyền, đại diện cơ quan quyền lực nhà nước thuộc các chủ thể Liên bang Nga, đại diện cơ quan tự quản địa phương, đại diện người sử dụng nước, các tổ chức xã hội, cộng đồng các dân tộc ít người miền Bắc, Xibiri, Viễn đông của Liên bang Nga. Chính phủ quy định việc thành lập và hoạt động của các Hội đồng lưu vực.
Bộ luật Nước quy định khá chi tiết về cơ sở dữ liệu nước quốc gia. Theo đó, cơ sở dữ liệu này là tổng hợp một cách hệ thống các thông tin, tài liệu về các nguồn nước thuộc sở hữu của các chủ thể khác nhau, về sử dụng và bảo vệ một cách hiệu quả, đúng mục đích các nguồn nước, phục vụ lập kế hoạch và triển khai các biện pháp ngăn chặn, khắc phục tác động tiêu cực của nước. Các hợp đồng sử dụng nước và quyết định cấp phép có hiệu lực từ thời điểm đăng ký vào cơ sở dữ liệu này. Chính phủ Liên bang quy định cụ thể về cơ sở dữ liệu này.
Quy hoạch tổng thể về sử dụng và bảo vệ nguồn nước là tài liệu đã được hệ thống hóa về hiện trạng các nguồn nước. Quy hoạch này là cơ sở để thực hiện các biện pháp kinh tế liên quan đến nước và các biện pháp bảo vệ. Quy hoạch có tính bắt buộc đối với các cơ quan nhà nước ở địa phương. Chính phủ Liên bang quy định trình tự soạn thảo, thông qua và triển khai các quy hoạch này.
Luật Tài nguyên nước của CHND Trung Hoa
Năm 1993, Trung Quốc ban hành Bản thực thi chế độ cấp giấy phép lấy nước. Đến năm 2006, văn bản này được thay thế bằng Quy chế cấp phép sử dụng TNN và Quản lý thu phí TNN. Năm 1997, Trung Quốc đã ban hành Chính sách về tài sản ngành nước. Năm 1998, Trung Quốc đã ban hành Luật TNN được sửa đổi bổ sung năm 2002 (tại Hội nghị lần thứ 29 của UBNTV Quốc hồi khóa 9 ngày 29/8/2002 và có hiệu lực từ ngày 01/10/2002). Điều này đã đánh dấu cho việc Trung Quốc đã đưa công tác quản lý TNN vào quỹ đạo quản lý theo luật pháp, trị thuỷ theo luật pháp để khai thác, sử dụng và bảo vệ TNN một cách hợp lý. Luật gồm 8 chương với 82 Điều, trong đó, công tác quản lý TNN được thể hiện ở các nội dung chính như:
Một là, Nhà nước thống nhất quản lý TNN.
Hai là, xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, chính sách về bảo vệ, khai thác, sử dụng, phát triển TNN; phòng chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra.
Ba là, Chính phủ điều phối TNN ở tầm vĩ mô trên toàn quốc thể hiện qua việc điều hòa, phân bổ TNN ở tầm vĩ mô trên toàn quốc dựa trên cơ sở các quy hoạch trung và dài hạn về cung cầu nước. Các phương án điều tiết và phân bổ nước phải lấy LVS làm đơn vị, phải theo quy hoạch lưu vực và quy hoạch trung và dài hạn về cung cầu nước.
Bốn là, cấp, thu hồi giấy phép về TNN: Áp dụng chế độ cấp phép cho hoạt động khai thác TNN và đền bù sử dụng nước theo nguyên tắc “Ai đầu tư xây dựng - người đó được quản lý và thu lợi”. Cơ quan quản lý phụ trách việc cấp phép cho hoạt động khai thác nguồn nước và tổ chức thực hiện trả phí sử dụng nước trong toàn quốc. Việc cấp phép phải phù hợp với quy hoạch tổng hợp TNN, quy hoạch vùng chức năng TNN, phù hợp với phương án phân bổ nước được phê duyệt.
Luật của Trung Quốc nhấn mạnh về phân bổ và sử dụng tiết kiệm TNN, tách thành một chương riêng. Sử dụng tiết kiệm TNN thể hiện ở việc quy định cụ thể về thực hiện chế độ đo đếm nước, thu phí và tăng giá khi sử dụng quá mức, áp dụng công nghệ, thiết bị tiên tiến tăng tần suất sử dụng nước tuần hoàn và tái sử dụng, dần dần loại trừ các công nghệ, thiết bị lạc hau và tiêu thụ nhiều nước.
NGUYỄN HƯƠNG
Bộ Tài nguyên và Môi trường