
Hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì, huy động sự tham gia của toàn Ngành và các cơ quan trong hệ thống chính trị tích cực tổ chức tổng kết, đánh giá 10 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/06/2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương tổ chức sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tổ chức triển khai các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương về nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của Ngành.
Trên cơ sở tổng kết thi hành pháp luật, toàn Ngành tài nguyên và môi trường đã tập trung cao độ xây dựng, hoàn thiện các dự án: Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) và Luật Địa chất và Khoáng sản. Tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội Khóa XV đã thông qua Luật Tài nguyên nước (sửa đổi); dự án Luật Đất đai (sửa đổi) tiếp tục được thảo luận, cho ý kiến và sẽ trình Quốc thông qua tại kỳ họp gần nhất. Dự án Luật Địa chất và Khoáng sản đang tiếp tục được hoàn thiện để bảo đảm trình Chính phủ trình Quốc hội trong năm 2024. Trong đó, nổi bật là tổ chức tốt việc lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) với đa dạng phương thức lấy ý kiến, tuyên truyền các điểm mới, thay đổi lớn trong dự thảo Luật đến mọi tầng, lớp Nhân dân. Đây thực sự trở thành sự kiện sinh hoạt chính trị sôi nổi với hơn 12 triệu lượt ý kiến góp ý.
Ngoài ra, với tinh thần cầu thị, Bộ Tài nguyên và Môi trường luôn hướng về địa phương, cơ sơ, Bộ đã chủ động cùng với các địa phương nắm bắt các vướng mắc trong thi hành pháp luật đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét ban hành các văn bản để tháo gỡ. Chỉ đạo xây dựng các Nghị định hướng dẫn thi hành để bảo đảm hiệu lực thi hành đồng bộ, thống nhất với thời hiệu của Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) sau khi được ban hành.
Trong năm 2023, Bộ đã xây dựng, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ09 dự thảo VBQPPL, 03 nghị định, 03 quyết định đã được ban hành; Bộ đã ban hành theo thẩm quyền 19 thông tư giải quyết, tháo gỡ các vướng mắc đặt ra từ thực tiễn, rút ngắn thủ tục hành chính, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường kỷ cương trong tổ chức thực thi chính sách, pháp luật. Chỉ đạo, đôn đốc các địa phương rà soát, đánh giá việc xây dựng, ban hành các văn bản theo thẩm quyền đảm bảo thống nhất của hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước.
Đối với công tác lập quy hoạch theo quy định của Luật Quy hoạch, Bộ tập trung xây dựng, hoàn thành, trình Thủ tướng Chính phủ 08/08 quy hoạch cấp quốc gia, 10/15 quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành. Trong đó, lập Quy hoạch không gian biển quốc gia là nhiệm vụ khó, phức tạp, lần đầu được triển khai thực hiện ở nước ta.
Tại địa phương, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các tỉnh đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực tài nguyên và môi trường tạo lập hệ thống pháp luật về tài nguyên và môi trường ngày càng đồng bộ, thống nhất, đi vào cuộc sống.
Kiện toàn tổ chức bộ máy: Tinh gọn, hiệu quả trong quản lý
Bộ đã cơ bản hoàn thành việc sắp xếp tổ chức bộ máy của Bộ, các đơn vị trực thuộc theo Nghị định số 68/2022/NĐ-CP ngày 22/9/2022 của Chính phủ.
Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh chỉ đạo tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2024 của Vụ Tổ chức Cán bộ
Sau khi kiện toàn, sắp xếp, tổ chức bộ máy của Bộ đã giảm mạnh đầu mối trung gian; giảm số lượng lớn lãnh đạo, quản lý và biên chế tham mưu tổng hợp, hỗ trợ phục vụ. Tổ chức xây dựng Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập ngành tài nguyên và môi trường; ban hành hướng dẫn vị trí việc làm công chức nghiệp vụ chuyên ngành tài nguyên và môi trường; vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý và chức danh nghề nghiệp chuyên ngành, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp trong đơn vị sự nghiệp công lập ngành tài nguyên và môi trường. Tiếp tục tổ chức rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các quy định, quy chế trong công tác cán bộ, theo hướng tăng cường phân cấp đi đôi với nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu; xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, quy trình, thời gian thực hiện. Đẩy mạnh việc thực hiện quản lý hồ sơ công chức, viên chức thông qua hệ thống phần mềm quản lý để từng bước xây dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu công chức, viên chức, người lao động thuộc Bộ. Tiếp tục ban hành các văn bản siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính trong hoạt động công vụ; xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Các địa phương đã kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường đảm bảo thống nhất quản lý của Ngành, phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng địa phương.
Cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa nền hành chính, chuyển đổi số
Thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2020 của Chính phủ ban hành Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020 - 2025, Bộ đã đề xuất, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ. Theo đó, trong tổng số 178 TTHC được rà soát, Bộ sẽ thực hiện bãi bỏ, đơn giản hóa 153/178 TTHC (đạt 85%). Chỉ số cải cách hành chính của Bộ năm 2022 (Par-index) đạt 86.59/100 điểm xếp thứ 6 trên tổng số 17 các Bộ, cơ quan ngang bộ, tiếp tục duy trì thứ hạng so với năm 2021. Chỉ số chuyển đổi số (DTI) của Bộ năm 2023 đứng thứ 3/17 Bộ, ngành (có dịch vụ công).
Bộ đã vận hành các hệ thống thông tin Chính phủ điện tử phục vụ công tác chỉ đạo điều hành, quản trị, làm việc của Bộ, Ngành tài nguyên và môi trường trên môi trường điện tử, trực tuyến; nền tảng kết nối, tích hợp dữ liệu của Bộ đã tích hợp với nền tảng kết nối, chia sẻ dữ liệu quốc gia, với 240 dịch vụ, 10.878.577 giao dịch; số lượng văn bản điện tử (ký số) gửi, nhận qua Trục liên thông văn bản quốc gia và nội bộ là 95.018 văn bản. Cơ bản hoàn thành các nhiệm vụ được giao tại Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến 2030 (Đề án 06/CP).
Toàn bộ 63/63 tỉnh, thành phố đã và đang triển khai xây dựng CSDL, trên cả nước đã có CSDL của 450/705 huyện. Đã kết nối CSDL đất đai của 63/63 tỉnh, thành phố với CSDLQG về dân cư với 461/705 quận/huyện, 6.198/10.599 phường/xã, tổng số hơn 26 triệu thửa đất; cơ bản hoàn thành thí điểm làm giàu, làm sạch dữ liệu về đất đai, thông tin nhà ở trong CSDL đất đai tại tỉnh Hà Nam và TP Hà Nội”.
Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết đơn thư khiếu nại
Toàn ngành Tài nguyên và Môi trường đã tiến hành 2020 cuộc thanh tra, kiểm tra, đối với 5.089 tổ chức, cá nhân. Xử phạt vi phạm hành chính 944 tổ chức, cá nhân với số tiền 135.156 triệu đồng, kiến nghị truy thu nộp ngân sách nhà nước 68.8 triệu đồng, kiến nghị thu hồi 382 ha đất.
Thực hiện tốt công tác tiếp, giải quyết các kiến nghị của nhân dân. Tập trung lực lượng giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai phức tạp, đông người; quan tâm giải quyết đối với các vụ việc mới phát sinh, đảm bảo ổn định trật tự, chính trị, xã hội ở các địa phương. Trong năm 2023, toàn Ngành đã tổ chức tiếp 4.276 lượt với 4.960 công dân, có 52 lượt đoàn đông người với 383 người; nhận được là 16.589 lượt đơn thư khiếu nại tố cáo (có 6.358 đơn không đủ điều kiện xử lý, chiếm 38.3% số đơn nhận được), số đơn đủ điều kiện xử lý là 10.123 đơn tương ứng 10.123 vụ việc.
Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh thị sát hoạt động sản xuất đá thạch anh tại Bắc Kạn
Công tác tiếp công dân được Bộ thực hiện nghiêm túc theo quy định của pháp luật về tiếp công dân, bố trí cán bộ có chuyên môn, năng lực, tiếp công dân thường xuyên tại Địa điểm Tiếp công dân. Việc tiếp nhận, phân loại và xử lý đơn thư được Bộ thực hiện theo quy định của pháp luật. Đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân gửi đến Bộ đã được nhập, theo dõi trên hệ thống quản lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, được phân loại, xử lý theo quy định. Công tác giải quyết khiếu nại có nhiều đổi mới, chú trọng công tác chuẩn bị tiến hành xác minh vụ việc, đã thu thập và nghiên cứu hồ sơ tài liệu, xác định các nội dung cần xác minh, cơ quan, tổ chức, cá nhân cần làm việc, hồ sơ tài liệu cần thu thập, do đó đã rút ngắn đáng kể thời gian làm việc tại địa phương. Trong quá trình giải quyết, luôn chú trọng công tác đối thoại, hòa giải và tuyên truyền chính sách pháp luật để công dân hiểu và tự nguyện rút đơn khiếu nại, do đó số vụ việc đã đình chỉ giải quyết khiếu nại lên tới 62% số vụ việc đã giải quyết thuộc thẩm quyền.
Chủ động tham gia hợp tác, đón đầu các cơ hội từ xu thế phát triển
Bộ đã chủ động hội nhập với xu thế chung toàn cầu về môi trường, khí hậu; tham gia tích cực và đóng góp có trách nhiệm vào các nỗ lực chung toàn cầu về giải quyết các thách thức thời đại như biến đổi khí hậu, ô nhiễm nhựa, suy giảm đa dạng sinh học và hệ sinh thái; nắm bắt các cơ hội thúc đẩy hợp tác phát triển.
Tham mưu kịp thời cho Đảng, Quốc hội và Chính phủ triển khai thực hiện các cam kết quốc tế về môi trường, khí hậu, nhất là cam kết về mục tiêu phát thải ròng bằng “0”, chuyển đổi năng lượng công bằng, đổi mới cơ chế tài chính, tín dụng quốc tế cho phát triển bền vững. Chủ trì, phối hợp tham mưu Lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Chính phủ, đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng tham dự và đóng góp thực chất hiệu quả tại nhiều diễn đàn, sự kiện quốc tế quan trọng trong năm, nổi bật là Đoàn công tác của Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ dẫn đầu tham dự Hội nghị COP28 tại Các Tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất (UAE); Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7) mở rộng; Hội nghị rà soát toàn diện giữa kỳ việc triển khai các mục tiêu của Thập kỷ hành động “Nước vì sự phát triển bền vững” giai đoạn 2018-2028; Hội nghị thượng đỉnh về Hiệp ước tài chính toàn cầu mới... Qua đó, từng bước góp phần thực hiện hiệu quả nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong lĩnh vực ngoại giao tài nguyên, môi trường và khí hậu; khẳng định vai trò và đóng góp quan trọng của Bộ với tư cách là Cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện các Công ước, nghị định thư và thỏa thuận quốc tế về môi trường, khí hậu.
Chủ động thúc đẩy đàm phán, ký kết các thỏa thuận hợp tác về tài nguyên, môi trường và khí hậu với nhiều đối tác chiến lược, quan trọng, bao gồm: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Diễn đàn Kinh tế thế giới,.... Kịp thời nắm bắt, tham mưu tham gia các sáng kiến quốc tế, khu vực về môi trường, khí hậu. Đặc biệt, đã chủ trì phối hợp với Nhóm các đối tác phát triển về việc thành lập Ban thư ký, xây dựng Kế hoạch huy động nguồn lực thực hiện Tuyên bố chính trị thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP), thúc đẩy hỗ trợ cho quá trình chuyển đổi năng lượng năng lượng công bằng, công lý tại Việt Nam, đón đầu các cơ hội hợp tác khai thác tiềm năng lợi thế về tài nguyên gió, thúc đẩy chuyển đổi xanh, phát triển các ngành kinh tế dựa vào hệ sinh thái, giảm phát thải khí nhà kính.
Bộ và các đơn vị trực thuộc đã tham mưu, chuẩn bị nội dung phục vụ Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ tiếp và làm việc với nhiều Đoàn khách quốc tế quan trọng. Chuẩn bị chu đáo và tổ chức tốt việc đón tiếp và làm việc với nhiều đoàn khách quốc tế đến làm việc tại Bộ; chủ trì, tổ chức thành công nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế, để lại ấn tượng tốt đẹp với các đối tác, tổ chức quốc tế.
Nâng cao hiệu quả của các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học
Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Bộ đã tập trung nghiên cứu và phát triển các nhiệm vụ phục vụ xây dựng văn bản pháp luật về tài nguyên và môi trường; ứng dụng công nghệ trong các lĩnh vực đất đai, đo đạc bản đồ và viễn thám, tài nguyên nước, môi trường, khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu, địa chất khoáng sản, biển và hải đảo và ứng dụng khoa học và công nghệ trong chuyển đổi số và chính phủ điện tử; đổi mới sáng tạo trong các ngành, lĩnh vực, các hướng công nghệ ưu tiên; chương trình phát triển KH&CN trong các lĩnh vực: Hóa học, Khoa học sự sống, Khoa học trái đất, Khoa học biển giai đoạn 2017-2025.
Các cơ sở đào tạo của Bộ đã thực hiện đổi mới mạnh mẽ công tác: xây dựng đội ngũ, quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, xây dựng cơ sở vật chất,… Trong đó, trên tinh thần thực học và lấy người học làm trung tâm, theo Chiến lược phát triển trường đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2035, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội phấn đấu trở thành một trường đại học trọng điểm quốc gia trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường, tiệm cận với các cơ sở đào tạo đại học uy tín trong khu vực.
Việt Anh
Bài 2: Quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn lực từ đất đai, tài nguyên đáp ứng yêu cầu phục hồi, tái cơ cấu nền kinh tế