PGS.TS. NGUYỄN CHU HỒI

Đại biểu Quốc hội khoá XV;

Uỷ viên Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội

 

 

Cách đây gần 5 năm, ngày 22/10/2018, Hội nghị Trung ương 8 khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 36-NQ/TW). Theo đó, nghị quyết đã xác định rõ các quan điểm, mục tiêu, chủ trương lớn; các khâu đột phá và giải pháp chủ yếu trong phát triển kinh tế biển để Việt Nam sớm trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương. Nghị quyết 36-NQ/TW là cơ sở quan trọng để các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương ven biển cụ thể hoá, hiện thực hoá yêu cầu phát triển bền vững kinh tế biển phù hợp với thực tiễn ở địa phương. Đến nay, sau gần 5 năm triển khai thực hiện nghị quyết, kinh tế biển đã có những chuyển biến rõ rệt, tiếp tục có những đóng góp quan trọng, tạo động lực phát triển đất nước nói chung và từng địa phương ven biển nói riêng.  

 

 

 

Để triển khai Nghị quyết 36-NQ/TW, Chính phủ đã kịp thời xây dựng Kế hoạch tổng thể về phát triển bền vững kinh tế biển. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành và địa phương ven biển cũng xây dựng các đề án, dự án, nhiệm vụ cụ thể trong kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2021 - 2025. Đồng thời, đã và đang hiện thực hoá phần kinh tế biển trong quy hoạch phát triển ngành/lĩnh vực, địa phương đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo tinh thần của Luật Quy hoạch 2017. Yêu cầu chung của các kế hoạch và quy hoạch là bảo đảm tính thống nhất, tổng thể, đồng bộ và nhất quán, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn phát triển; tôn trọng quy luật thị trường, lợi thế so sánh vùng miền; tránh chồng chéo và “bệnh” hội chứng trong phát triển.

Ở cấp trung ương, Ban Kinh tế Trung ương là cơ quan thường trực theo dõi, chỉ đạo việc thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW, còn theo Luật Biển Việt Nam (2012), Chính phủ quản lý nhà nước thống nhất trên các vùng biển Việt Nam. Cho nên, để triển khai hiệu quả Nghị quyết 36/NQ-TW, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ủy ban Chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam theo Quyết định số 203/QĐ-TTg. Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện kế hoạch tổng thể về phát triển bền vững kinh tế biển. Ở cấp địa phương, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ven biển đã thành lập các Ban Chỉ đạo biển, đảo cấp tỉnh. Đến nay, trong 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ven biển đã có 14 chi cục và 14 phòng quản lý về biển, đảo trực thuộc Sở TN&MT. Như vậy, về cơ bản, cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ, công chức tham gia quản lý nhà nước đối với phát triển bền vững kinh tế biển được kiện toàn từ trung ương xuống địa phương.

 

 

Song song với việc xây dựng và tổ chức triển khai Kế hoạch tổng thể nói trên, Chính phủ và các địa phương đã chú trọng đẩy mạnh tuyên truyền chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các chính sách về phát triển bền vững kinh tế biển dựa trên nền tảng kinh tế biển xanh, mà cốt lõi là sử dụng bền vững tài nguyên và môi trường biển, gắn với phát huy các giá trị văn hoá biển đặc trưng Việt Nam. Chú trọng nâng cao nhận thức và trang bị thêm kiến thức cho các tầng lớp nhân dân và doanh nghiệp về phát triển bền vững các ngành kinh tế biển có thế mạnh, như: Cảng biển, du lịch và dịch vụ biển; nuôi trồng thuỷ sản và đánh bắt hải sản; năng lượng biển tái tạo, bao gồm điện gió biển; và triển vọng phát triển các ngành kinh tế biển mới (dược liệu biển, nghề cá giải trí, đô thị biển, đổi mới sáng tạo trong khai thác bền vững biển,…).

Hệ thống luật pháp về/liên quan đến biển, đảo tiếp tục được hoàn thiện, như: Luật Đa dạng sinh học, Luật Dầu khí, Luật Biển Việt Nam, Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo, Luật Quy hoạch, Luật Thủy sản, Luật Du lịch,…, đã cung cấp cơ sở pháp lý cho khai thác hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh của biển và phát triển bền vững kinh tế biển. Bên cạnh đó, các địa phương ven biển đã xây dựng nhiều chính sách thu hút các nguồn lực, nhất là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào phát triển kinh tế biển. Trong đó, ưu tiên các chính sách hỗ trợ đầu tư hạ tầng cơ sở phục vụ phát triển kinh tế biển, như: Hệ thống đường cao tốc ven biển Bắc Nam và liên kết vùng ven biển với các vùng kinh tế trong cả nước; hạ tầng kỹ thuật chuyển đổi số; hạ tầng tự nhiên ven biển thích ứng với biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai.

 

 

Các cơ quan, đơn vị thuộc các bộ, ngành và địa phương, trong phạm vi thẩm quyền được giao, cũng chủ động thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của kinh tế biển. Nhất là, tăng cường kiểm soát môi trường khi thẩm định dự án đầu tư phát triển kinh tế biển trong toàn bộ vòng đời của dự án. Nâng cao hiệu quả công tác giám sát, sàng lọc các dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án lớn, trọng điểm thuộc địa bàn khu kinh tế ven biển, hoặc lân cận các vùng biển, đảo đặc biệt nhạy cảm về môi trường (PSSA) hoặc quan trọng về sinh thái, sinh học biển (EBSA).

Chính phủ đã chú trọng phát triển khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển, bao gồm các nhà kinh tế, nhà khoa học và cả những người trực tiếp khai thác, sử dụng biển, đảo. Đáng kể là, với sự giúp đỡ của một số tổ chức quốc tế và doanh nghiệp trong nước, người lao động ở các lĩnh vực thủy sản, dầu khí, du lịch,...được đào tạo lại kỹ năng, được cập nhật kiến thức mới, đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ thân thiện môi trường.

Trong những năm gần đây, phương thức đồng quản lý nghề cá dựa vào cộng đồng cũng được thúc đẩy thông qua hình thức khai thác theo tổ, đội sản xuất, hợp tác xã đánh cá xa bờ,... Ngoài ra, bảo đảm an sinh xã hội cho ngư dân tham gia đánh cá xa bờ cũng được các các bộ, ngành, địa phương quan tâm; các hội và hiêp hội trong lĩnh vực thuỷ sản đồng hành. Cách thức chủ yếu là kết hợp hỗ trợ về y tế, nhà ở, điện nước, phương tiện, kỹ thuật đánh cá xa bờ với các chính sách bảo trợ xã hội cần thiết đối với ngư dân. Đây là những hoạt động thiết thực giúp ngư dân an tâm bám biển, cải thiện sinh kế gia đình, góp phần làm giàu cho đất nước và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của tổ quốc.

 

 

Theo Bộ TN&MT, du lịch biển đảo mang lại 70% doanh thu cho ngành du lịch cả nước; vận tải hàng hóa đường biển đạt hơn 85 triệu tấn; sản lượng khai thác dầu quy đổi đạt 18,43 triệu tấn (dầu thô đạt 10,97 triệu tấn); sản lượng thủy sản khai thác đạt 3,92 triệu tấn và nuôi trồng thuỷ sản đạt hơn 4,8 triệu tấn,...Cả nước hiện có 18/19 khu kinh tế ven biển nằm trong quy hoạch đã được thành lập; chuỗi đô thị biển với gần 600 đô thị lớn nhỏ ven biển đã được hình thành, chiếm khoảng 8% số lượng đô thị cả nước với dân số khoảng 19 triệu người. Hơn 10 năm gần đây, các khu kinh tế biển gắn với cảng nước sâu và các khu văn hóa sinh thái ven biển đã từng bước được hình thành - là tiền đề phát triển chuỗi đô thị ven biển, đô thị đảo sinh thái trong tương lai ở nước ta. Đồng thời, một hệ thống đô thị biển theo đúng nghĩa của nó hứa hẹn sẽ trở thành một lĩnh vực “kinh tế biển mới” ở nước ta.

Quy hoạch không gian biển quốc gia đang được triển khai, ưu tiên bảo đảm hài hòa giữa phát triển và bảo tồn, giảm xung đột lợi ích giữa các bên liên quan, định hướng phát triển kinh tế biển xanh và bền vững. Công tác BVMT, bảo tồn đa dạng sinh học biển được tăng cường; chủ động hơn trong ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và phòng chống thiên tai biển. Đến nay, cả nước có 12/16 khu bảo tồn biển đã được thành lập với tổng diện tích hơn 206 nghìn hecta, trong đó có 185 nghìn hecta biển. Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế về phát triển bền vững kinh tế biển, bảo vệ môi trường và quản lý khu bảo tồn biển tiếp tục được duy trì và mở rộng. Việt Nam đã tham gia nhiều diễn đàn khu vực và quốc tế về kinh tế biển xanh; giảm thiểu rác thải biển, bao gồm rác thải nhựa; bảo vệ, bảo tồn đa dạng sinh học và các hệ sinh thái biển.

 

 

Đánh giá chung việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh cho rằng: “… Nhận thức của toàn hệ thống chính trị và người dân về vị trí, vai trò của biển, đảo đối với sự phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia được nâng lên rõ rệt. Chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được giữ vững. Công tác tìm kiếm cứu nạn, an toàn hàng hải được tăng cường. Công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển được chủ động triển khai toàn diện. Kinh tế biển, các vùng biển, ven biển đang trở thành động lực phát triển của đất nước. Hệ thống kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư; đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng biển được cải thiện. Nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, phát triển nguồn nhân lực về biển đạt được nhiều kết quả tích cực. Công tác quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên môi trường biển, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng được chú trọng”.

 

 

Nằm ở phía Tây Nam của Tổ quốc, tỉnh Kiên Giang sở hữu một vùng biển rộng (hơn 63.000 km2), bờ biển dài (khoảng 200km) với hơn 140 đảo lớn, nhỏ, tạo thành 5 quần đảo, trong đó có Phú Quốc là đảo lớn nhất cả nước. Dựa trên tiềm năng, lợi thế vượt trội về biển, Tỉnh ủy Kiên Giang đã quán triệt sâu rộng đến các cấp ủy Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh về ý nghĩa, tầm quan trọng của chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, từ đó tạo được tầm nhìn và quyết tâm mới trong hành động. Theo đó, tỉnh đã quan tâm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vùng ven biển và hải đảo. Gần 5 năm qua, Kiên Giang đã huy động gần 80% nhu cầu vốn đầu tư toàn tỉnh cho vùng biển, đảo. Nhiều dự án, công trình lớn đã hoàn thành và được đưa vào sử dụng, như: Cầu Cái Lớn - Cái Bé, lưới điện quốc gia ra các đảo Phú Quốc, Hòn Tre, Lại Sơn, Hòn Nghệ, Sơn Hải,...

Đặc biệt, Phú Quốc đã là thành phố đảo đầu tiên của Việt Nam và được đầu tư nhiều dự án, công trình quan trọng, như: Cảng hàng không quốc tế Phú Quốc, cảng biển Bãi Vòng, cảng biển An Thới, hệ thống giao thông, điện, nước nội đô,... Du lịch biển Kiên Giang cũng khởi sắc, có bước phát triển khá tốt, thu hút lượng lớn du khách trong và ngoài nước (khoảng 10 triệu lượt khách/năm). Ngoài ra, tỉnh Kiên Giang đã chú trọng đầu tư các công trình thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản ở vùng ven biển, các công trình gia cố đê biển, nâng tỷ lệ hộ dân ven biển và hải đảo được sử dụng điện đạt 99%, hộ sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 81%. Tỉnh cũng chú ý đến ứng phó với biển đổi khí hậu, nước biển dâng để phát triển bền vững, như: nâng cấp đê biển, chống xói lở bờ biển, khôi phục và phát triển rừng phòng hộ ven biển, quản lý tổng hợp vùng bờ, nuôi tôm sinh thái,...

 

 

Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có điều kiện thuận lợi trong phát triển kinh tế biển. Với bờ biển dài khoảng 305 km, trong đó khoảng 156 km có bãi cát thoải có thể tắm quanh năm. Ngoài ra, với vùng thềm lục địa rộng hơn 100.000 km2, tỉnh có tiềm năng to lớn để phát triển các ngành kinh tế biển như: Dầu khí, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản, cảng và vận tải biển,... Trên địa bàn tỉnh có 57 bến cảng được quy hoạch, trong đó đã đưa vào khai thác 28 bến cảng với tổng chiều dài cầu bến 11,6 km. Riêng khu vực Cái Mép - Thị Vải có 35 bến cảng, hiện đã đưa vào khai thác 17 bến. Hoạt động của hệ thống cảng biển trên địa bàn tỉnh ngày càng hiệu quả; tổng công suất khai thác hệ thống cảng năm 2020 đạt 90 triệu tấn/năm, dự kiến đến năm 2025 đạt khoảng 133-149 triệu tấn/năm và đến 2030 đạt khoảng 161-195 triệu tấn/năm. Hoạt động dịch vụ hậu cần cảng tại Bà Rịa - Vũng Tàu cũng có những chuyển biến tích cực, đã có 20 dự án kho bãi logistics đi vào hoạt động với tổng diện tích chiếm đất khoảng 224 ha. Quy hoạch xây dựng Trung tâm logistics Cái Mép Hạ đã hoàn thành - là cơ sở pháp lý để lựa chọn nhà đầu tư, kết nối Bà Rịa - Vũng Tàu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Lượng khách du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tăng bình quân hơn 12,9%/năm, trong đó phần lớn lượng khách đến vùng biển, đảo với tổng thu từ du lịch tăng bình quân 16%/năm. Nhằm phục hồi ngành du lịch sau đại dịch, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã và đang triển khai các chính sách, biện pháp kích cầu, phục hồi hoạt động lữ hành; tăng cường bảo đảm an toàn cho du khách; hỗ trợ bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực. Đồng thời, đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành du lịch, đầu tư hoàn thiện hạ tầng tuyến đường ven biển và cải tạo bãi biển,…Với lợi thế tự nhiên thuận lợi, Bà Rịa - Vũng Tàu cũng chú trọng phát triển nuôi trồng thủy sản. Tăng trưởng giá trị sản xuất nuôi trồng thủy sản đạt bình quân 4,5%/năm. Diện tích nuôi thủy sản nước mặn và nước lợ của tỉnh hiện lên đến 4.492 ha với sản lượng đạt hơn 11.000 tấn/năm. Trong đó, khoảng 3.900 ha mặt nước đang nuôi trồng các loại tôm sú, thẻ chân trắng có giá trị kinh tế và mang lại lợi nhuận cao cho người nuôi do ứng dụng công nghệ cao vào nuôi trồng. Nghề nuôi cá biển lồng bè tại xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu từ năm 2007 tiếp tục phát triển bền vững, không chỉ đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, mà còn là vùng nguyên liệu chế biến xuất khẩu, góp phần nâng cao đời sống người dân và phát triển kinh tế địa phương.

 

 

Khánh Hòa là tỉnh ven biển “cực Đông” của lãnh thổ đất liền Việt Nam, có lợi thế vượt trội về biển và tiềm năng phát triển kinh tế biển lớn do nằm gần đường hàng hải quốc tế cắt qua Biển Đông, có thềm lục địa rất hẹp, sườn lục địa dốc với khoảng 200 đảo lớn, nhỏ và hơn 300 km bờ biển với các vịnh ven bờ nổi tiếng, cùng với quần đảo san hô Trường Sa ở ngoài khơi. Vùng biển, đảo và vùng ven biển Khánh Hoà chiếm phần chính của “Tam giác san hô Biển Đông” có tiềm năng bảo tồn cao, đa dạng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển (sinh vật và phi sinh vật), bao gồm cả cảnh quan biển đảo - tiền đề cho phát triển đa dạng các ngành/lĩnh vực kinh tế biển, nhất là du lịch biển, cảng biển, đánh cá, nuôi hải sản,...Bởi vậy, khai thác, sử dụng biển, đảo để phát triển bền vững kinh tế biển Khánh Hoà gắn với bảo đảm an ninh quốc phòng trên biển, đã được Bộ Chính trị, Chính phủ và Quốc hội đặt vào vị trí chiến lược ưu tiên xuyên suốt. Theo đó, Đảng và Nhà nước xác định Khánh Hoà là thành phố trực thuộc trung ương vào năm 2030, là trung tâm liên kết vùng Nam Trung bộ, Tây Nguyên với cả nước.

Triển khai thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW và Nghị quyết số 09-NQ/TW của của Bộ Chính trị, tỉnh Khánh Hoà đã đạt được những thành tựu quan trọng trong lĩnh vực kinh tế biển. Theo đó, tỉnh đã chú trọng điều chỉnh các quy hoạch quan trọng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, như: Quy hoạch tỉnh, Quy hoạch TP. Nha Trang, Quy hoạch Khu Kinh tế Vân Phong, Quy hoạch đô thị mới Cam Lâm. Đồng thời, phấn đấu đến năm 2025 sẽ phủ kín quy hoạch phân khu xây dựng, phân khu đô thị trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố. Khánh Hoà quyết tâm hiện thực hóa khát vọng đưa Khánh Hòa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030, xa hơn nữa là xây dựng Khánh Hòa thành đô thị thông minh, bền vững, bản sắc, ngang tầm khu vực châu Á vào năm 2045.

Đến nay, một số quy hoạch của tỉnh đã được phê duyệt, công bố và xúc tiến đầu tư; đường cao tốc ven biển Bắc Nam qua tỉnh sắp hoàn thành và đường cao tốc Nha Trang - Buôn Ma Thuột bắt đầu khởi công,…đã mở ra cơ hội mới và tạo động lực quan trọng thúc đẩy phát triển KT-XH của tỉnh, nhất là kinh tế biển. Đặc biệt, Khánh Hoà đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, quản trị công và cải cách hành chính; thực hiện hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm lo đời sống nhân dân,…Vì thế, trong 5 năm qua, vượt mọi khó khăn và đại dịch Covid-19, tỉnh vẫn giữ được vtrí các tỉnh top đầu về kinh tế biển ở Việt Nam cùng với Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng,…Nhất là tiếp tục giữ vững vị thế địa chiến lược đặc biệt của huyện đảo Trường Sa, quân cảng Cam Ranh, cảng biển nước sâu trung chuyển quốc tế Vân Phong, cùng với các giá trị toàn cầu của vịnh đẹp Nha Trang và là một trong 5 trung tâm nghề cá lớn của cả nước;... Năm 2022, tăng trưởng GRDP của Khánh Hoà đạt 20,7%, cao nhất cả nước; 20/22 chỉ tiêu KT-XH quan trọng đạt và vượt kế hoạch đề ra; chỉ số PAPI tăng hạng rất tốt. 

 

 

Phú Yên là tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, có bờ biển dài 189 km với ngư trường rộng, nguồn lợi thủy sản phong phú; nhiều đầm vịnh kín gió, thuận lợi cho nuôi trồng, khai thác thuỷ sản, phát triển dịch vụ du lịch và cảng biển. Khu vực ven biển của tỉnh phát triển mạnh và được xem là vùng động lực kinh tế của tỉnh. Tăng trưởng kinh tế bình quân của tỉnh hơn 10,5%/năm; thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư, đóng góp trên 65% giá trị GRDP và trên 75% ngân sách tỉnh. Kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, du lịch được quan tâm đầu tư tương đối đồng bộ, phục vụ tốt phát triển kinh tế-xã hội khu vực ven biển. Hoạt động khai thác, nuôi trồng thủy sản gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển được đẩy mạnh. Sản lượng đánh bắt hàng năm trên 60.000 tấn, trong đó cá ngừ đại dương đạt trên 6.000 tấn có giá trị kinh tế cao. Nuôi trồng thủy sản đã phát triển thành một nghề sản xuất chính, cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu khoảng 8.000 tấn/năm, với các loại hải sản có giá trị như tôm sú, tôm thẻ chân trắng, tôm hùm, cá mú,... Công nghiệp ven biển từng bước phát triển, hình thành 05 khu công nghiệp tập trung, tổng diện tích hơn 460 ha, đã có hơn 80 dự án đầu tư với tỷ lệ đăng ký đầu tư lấp đầy khoảng 77%.

Đặc biệt, Khu kinh tế Nam Phú Yên là một trong 8 Khu kinh tế ven biển trọng điểm của cả nước được đầu tư hạ tầng tương đối đồng bộ. Ngoài Cảng biển Vũng Rô được đầu tư, nâng cấp, tiếp nhận tàu có tải trọng đến 3.000 DWT, năng lực khai thác hàng hóa đến nay đạt hơn 700.000 tấn/năm, Phú Yên còn quy hoạch Cảng biển nước sâu Bãi Gốc tiếp nhận tàu có trọng tải đến 50.000 tấn. Hạ tầng phục vụ du lịch được chú trọng đầu tư, toàn tỉnh hiện có hơn 370 cơ sở kinh doanh lưu trú du lịch, với hơn 6.000 buồng đạt tiêu chuẩn từ 4 -5 sao; tổng lượt khách du lịch đến tỉnh đạt khoảng 1,83 triệu lượt/năm,...

Một số ví dụ nêu trên cho thấy, những kết quả đạt của kinh tế biển ở từng địa phương ven biển đã góp phần quan trọng vào sự phát triển KT-XH, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân trong tỉnh nói chung và vùng biển, ven biển nói riêng. Kinh tế biển đã và đang trở thành động lực phát triển KT-XH của các địa phương ven biển cả nước, đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc dân và bảo vệ chủ quyền quốc gia từ phía biển.