PGS, TS. Phạm Thị Thanh Ngà: Kiến nghị giải pháp đột phá KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đến 2030

Thứ hai, 17/11/2025, 09:26 (GMT+7)
logo PGS, TS. Phạm Thị Thanh Ngà, Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu cho rằng, để thúc đẩy đột phá khoa học - công nghệ và chuyển đổi số trong lĩnh vực khí tượng thủy văn, môi trường, cần phát triển hạ tầng công nghệ hiện đại, cơ chế thí điểm công nghệ mới, ưu đãi tài chính và nhân lực chất lượng cao để nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo và ứng dụng AI.

Nỗ lực đột phá khoa học - công nghệ và chuyển đổi số của Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu

Tại hội nghị “Thúc đẩy đột phá nghiên cứu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo gắn với đào tạo trong viện, trường”, PGS, TS. Phạm Thị Thanh Ngà, Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu cho biết, trong thời gian qua đã đạt nhiều kết quả nổi bật trong nghiên cứu và ứng dụng KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Trong lĩnh vực khí tượng thủy văn, Viện đã ứng dụng các mô hình số và công nghệ tiên tiến vào dự báo, phát triển nền tảng WebGIS cảnh báo thiên tai, hình thành hệ thống quan trắc tự động và bước đầu ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để hiệu chỉnh kết quả dự báo. 

img_7586_1763264269.webp
PGS, TS. Phạm Thị Thanh Ngà, Viện trưởng Viện Khoa học KTTV và BĐKH

Trong lĩnh vực môi trường, Viện đã phát triển các tổ hợp thiết bị quan trắc kết nối IoT, xây dựng thành công hệ thống cảnh báo sớm lũ quét, sạt lở theo thời gian thực tại Hòa Bình, được địa phương ghi nhận là mô hình tiêu biểu về chuyển đổi số trong phòng chống thiên tai miền núi.

Tuy nhiên, Viện trưởng Viện Khoa học KTTV và BĐKH nhấn mạnh nhiều khó khăn, hạn chế cản trở bước tiến KHCN. Về hạ tầng công nghệ cốt lõi, Viện thiếu hệ thống máy tính hiệu năng cao (HPC) tích hợp GPU, dữ liệu LiDAR/DEM chuẩn hóa cấp quốc gia còn hạn chế, hạ tầng lưu trữ dữ liệu manh mún, thiết bị và băng thông còn hạn chế. Về nguồn nhân lực, thiếu hụt chuyên gia đầu ngành trong mô hình KTTV, AI, khoa học dữ liệu, đặc biệt các lĩnh vực chuyên sâu như xử lý point clouds, radar, ML địa không gian. 

Về cơ chế, chính sách và tài chính, quy trình R&D còn cứng nhắc, cơ chế đãi ngộ chưa đủ hấp dẫn, cơ chế đầu tư mua sắm tài sản số chưa rõ ràng. Ngoài ra, hệ thống nghiệp vụ chưa có AI/ML tích hợp, dữ liệu và chuẩn kỹ thuật chưa đồng bộ, liên kết doanh nghiệp - địa phương - viện nghiên cứu còn lỏng lẻo, nhiều công nghệ thử nghiệm chưa được thương mại hóa.

Giải pháp đột phá KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cho nông nghiệp - môi trường đến 2030

PGS, TS. Phạm Thị Thanh Ngà đề xuất một loạt giải pháp chiến lược nhằm thúc đẩy đột phá khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong ngành nông nghiệp và môi trường giai đoạn đến năm 2030.

Về hạ tầng công nghệ, trong đầu tư cấp quốc gia cần xây dựng Hệ thống HPC-GPU quốc gia cho KTTV làm nền tảng tính toán cho mô hình NWP, AI/ML, mô phỏng cực đoan khí hậu và ban hành Lộ trình NGDI (2025-2030) xác định vùng ưu tiên (bờ biển, vùng thiên tai, đô thị), tiêu chuẩn kỹ thuật LiDAR/DEM. Đồng thời, phát triển Hệ thống dự báo liên thông (seamless prediction system) và các Hub xử lý dữ liệu địa không gian chuyên ngành (regional cloud/edge compute).

23_09_2024_13_02_43_congnghe_ai_1763264884.webp
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong ứng phó thiên tai 

Về thể chế, chính sách và tài chính, Viện đề xuất cơ chế “Sandbox” thử nghiệm công nghệ môi trường theo tinh thần Nghị quyết 193, kết hợp thành lập Quỹ thí điểm LiDAR & chuyển đổi số địa không gian để tài trợ cho các pilot, hub dữ liệu và thu thập dữ liệu. Các chính sách ưu đãi thuế sẽ áp dụng cho dự án giảm phát thải, tín chỉ carbon, doanh nghiệp và nông dân áp dụng KHCN, đồng thời ưu đãi thuế cho các trung tâm R&D và các nhà khoa học nhằm thu hút nhân tài. Bên cạnh đó, Viện kiến nghị ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cho trạm IoT môi trường và tiêu chuẩn hóa metadata, định dạng file.

Đối với nguồn nhân lực và đào tạo, PGS, TS. Phạm Thị Thanh Ngà đề xuất các chính sách đãi ngộ nhằm thu hút và giữ chân nhân tài, bao gồm trả lương chuyên gia vượt khung và áp dụng hợp đồng dài hạn 5 - 10 năm dựa trên sản phẩm khoa học - công nghệ. Các đề tài nghiên cứu sẽ được gắn kết trực tiếp với chương trình đào tạo sau đại học của Viện, đồng thời triển khai các khóa đào tạo chuyên sâu về kỹ năng số và công nghệ mới, như point-cloud, InSAR và ML địa không gian. Bên cạnh đó, nội dung “Ứng dụng công nghệ số” sẽ trở thành học phần bắt buộc trong đào tạo nội bộ, nhằm nâng cao năng lực chuyên môn và khả năng ứng dụng thực tiễn cho đội ngũ nhân lực.

Việc triển khai đồng bộ các giải pháp về hạ tầng, cơ chế, chính sách và đào tạo nhân lực sẽ tạo nền tảng vững chắc cho nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo và ứng dụng công nghệ mới. Đồng thời, những sáng kiến này góp phần phát triển bền vững, tăng cường hiệu quả quản lý thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu trong ngành nông nghiệp, môi trường và khí tượng thủy văn trong giai đoạn đến 2030 và những năm tiếp theo.

Khánh Linh