
GS. TSKH. Đặng Hùng Võ - Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường: Phải thực hiện từ quy hoạch tổng thể đến chi tiết, để đảm bảo phát triển bền vững.
Tại Việt Nam, thiên tai cũng là vấn đề lớn, chúng ta đang bàn với nhau về quy hoạch hình dạng đô thị, nhưng tôi cho rằng điều lớn nhất mà chúng ta phải nói đến là phát triển bền vững. Năm 2020, Việt Nam có 13 cơn bão, trong đó cơn bão từ số 6 - 13 đã gây thiệt hại hàng chục ngàn tỷ động, chưa kể thiệt hại không tính bằng tiền. Bàn về phát triển bền vững, chúng ta cần quan tâm đến báo cáo Ngân hàng Thế giới về các biện pháp đảm bảo phát triển vùng biển. Báo cáo có 5 giải pháp:
Một là, chúng ta phải có số liệu đầy đủ về không gian vùng biển bằng ảnh vệ tinh; Hai là, quy hoạch biển phải đẩy lên trước, vì chúng ta làm mọi việc mà không có quy hoạch thì không thấy đường mà đi; Ba là, tăng cường sức chống chịu của hạ tầng và các dịch vụ công cộng ven biển; hạ tầng chống chịu được thiên tai ở mức độ thường hay gặp; Thứ tư là, các quyết định phải dựa trên nguyên lý thuận thiên; Năm là, nâng cao năng lực ứng phó, phục hồi.
Năm nguyên lý này cần phải được lưu tâm ngay trong quá trình chúng ta làm quy hoạch. Chúng ta phải thực hiện từ quy hoạch tổng thể đến chi tiết, để đảm bảo phát triển bền vững. Chúng ta có thể học người Nhật đề phòng các tai họa thiên nhiên từ biển đi vào, các khách sạn cần chống chịu được gió bão, nước lụt, sạt lở,… Chúng ta có thể bàn về quy hoạch tương lai, giải pháp, nhưng ở Việt Nam những khái niệm cơ bản nhất lại không được đưa vào bàn. Quy định về đường biển, đất liền cũng chưa có.
PGS. TS. Nguyễn Chu Hồi - Đại biểu Quốc hội, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam: Để “mạnh về biển, giàu từ biển” phải thay đổi về tư duy và nhận thức.
Các đô thị biển nước ta, nói đúng hơn là các đô thị ven biển, vẫn được phát triển trên nền tảng của tư duy “đất liền”. Sự thiếu sót trong nhận thức đã làm mất đi giá trị cốt lõi của đô thị biển, đặc biệt giá trị kinh tế trên một “đơn vị đô thị”. Nhìn chung, giá trị “biển bạc” vẫn chưa được phát huy, trong khi các giá trị trước mắt của “đất vàng” ở ven biển và trên đảo vẫn hấp dẫn hơn với cả nhà hoạch định chính sách và nhà đầu tư.
Điều này cũng có nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ nhận thức. Đặc biệt, cư dân Việt Nam, đặc biệt là ở hai vùng đồng bằng lớn là sông Hồng và sông Cửu Long, từ xa xưa, đã duy trì sinh kế nông nghiệp chủ yếu dựa vào đồng đất phì nhiêu. Họ không quan tâm và không nhận ra lợi thế và tiềm năng của biển cả. Tâm thức “xa rừng, nhạt biển”, thiếu khát vọng chinh phục biển đã giới hạn chúng ta trong những “giấc mơ con” và vẫn đứng ở ven biển.
Để tiến ra biển bằng hệ thống đô thị biển để “mạnh về biển, giàu từ biển”, đầu tiên và quan trọng nhất là phải thay đổi về tư duy và nhận thức, phải hướng ra biển, dựa vào biển, lấy biển làm động lực phát triển, để làm giàu từ biển và xây dựng một Việt Nam mạnh về biển theo tinh thần của các chiến lược biển của Đảng và Nhà nước nói trên.
Tiến ra biển để phát huy lợi thế, để chuyển lợi thế thành lợi ích cho quốc gia phải là một hướng ưu tiên cao nhất thông qua việc tạo ra các “cực phát triển” mạnh hướng biển, góp phần tích tụ dân số đủ lớn trong không gian biển, ven biển và đảo để thực hiện “chủ quyền dân sự” của Việt Nam trên các vùng biển của Tổ quốc. Trong đó, xây dựng và phát triển hệ thống đô thị biển là một phương án định cư, một cách tích tụ dân số nhanh nhất và cũng dễ quy hoạch, quản lý nhất, cũng là góp phần giải bài toán quá tải đô thị trong tương lai. Đặc biệt, phát triển các đô thị biển để kết nối không gian biển với bờ, bờ với đảo và đảo với biển, đánh thức tiềm năng không gian kinh tế biển, tăng cường và mở rộng hội nhập kinh tế, cũng như hình thành các “đối trọng” trên biển cần thiết trong bối cảnh mới ở Biển Đông và khu vực như nói trên.
Để hệ thống đô thị biển nước ta phát triển xứng tầm, để triển khai Chiến lược biển 2030 và thực hiện “Khát vọng Việt Nam” có quá nhiều việc phải làm, trong đó cần phải tổ chức lại không gian kinh tế biển, bao gồm kinh tế ven biển, kinh tế đảo và kinh tế thuần biển, trong đó cần xác định không gian đô thị biển. Cụ thể, cần xem xét, cân nhắc và chú ý xử lý một số/ nhóm vấn đề dưới đây:
Thứ nhất, công nhận và sử dụng khôn khéo các giá trị của cảnh quan thiên nhiên và các hệ sinh thái biển, đảo như là nguồn “vốn phát triển” dài hạn; thiết kế và lựa chọn các mẫu hình kiến trúc đô thị xanh, thân thiện với tự nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu, phù hợp văn hóa bản địa.
Thứ hai, xác định mô hình đô thị biển như là một “Hệ sinh thái đô thị biển” đa chiều, đa phương diện, đa dạng và đa dụng. Nó có đầy đủ chức năng và cấu trúc của một phức hệ sinh thái tự nhiên - nhân sinh, có các dòng vật chất tương tác bên trong và bên ngoài hệ thống. Mô hình đô thị ven biển, đô thị đảo hay đô thị trên biển vừa phải hiện đại, vừa dân tộc; bảo đảm an ninh, an toàn và an sinh và vừa có tính đặc thù vùng miền.
Thứ ba, cần sớm phát triển mô hình đô thị biển cấu trúc đa chiều, vì đô thị vốn là một thực thể mang tính nhân văn, hay nói cách khác cũng là một hệ sinh thái “nhân sinh”, được con người tạo ra từ chính các nguồn lực tự nhiên (tài sản và vốn tự nhiên).
Thứ tư, cần chú ý làm rõ chức năng trung tâm của hệ sinh thái đô thị biển. Một hệ sinh thái đô thị bao giờ cũng là thành phần của một hệ thống lớn hơn và đồng thời lại bao chứa một hoặc nhiều hệ thống nhỏ hơn.
Thứ năm, cần lưu ý, mỗi hệ thống (tự nhiên và nhân sinh) đều có 3 thuộc tính (đặc trưng) vốn có: Tính vượt trội, tính đa dụng và tính liên kết (liên kết nội tại và liên kết vùng).
PGS. TS. Trần Đình Thiên, Thành viên Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam: Tư duy tiến ra biển đang dần thay đổi
Tầm nhìn đô thị biển có nhiều vấn đề. Về mặt lịch sử, chúng ta mới bắt đầu có tư duy hướng biển. Các thương cảng như Hội An, Vân Đồn xưa chưa phải là toạ độ chiến lược, chưa trở thành động lực lôi kéo sự phát triển. Trong quá khứ, tư duy hướng biển chưa rõ ràng.
Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập, tư duy đang dần thay đổi, nhưng vẫn còn một số vấn đề: Một là, khoảng 20 khu kinh tế ven biển đang phát triển nhưng chưa thể trở thành nền tảng phát triển đô thị biển chiến lược. Cách tư duy phát triển khu kinh tế ven biển chưa được ưu tiên xứng tầm; trong khi đó, chính sách ưu tiên phát triển các khu kinh tế cửa khẩu chưa thực sự phát huy hiệu quả. Do đó, cần phải nhìn lại và đánh giá các khu kinh tế ven biển gắn với đô thị biển một cách rõ ràng hơn; Hai là, thiếu nguồn lực để phát triển; Ba là, thiếu cơ chế đặc thù; Bốn là, còn những xung đột lớn trong cách thức phát triển đô thị biển. Cách thức phát triển của tỉnh xung đột với vùng hay quốc gia đang tồn tại.
Về giải pháp: Một là, phải có tầm nhìn và cách tiếp cận mới về đô thị biển, phải thể hiện trong quy hoạch quốc gia. Chức năng của đô thị biển phải được định hình rõ và đảm bảo không xảy ra xung đột; Hai là, đây phải là toạ độ hội nhập quốc gia, mở cửa và trở thành trung tâm cạnh tranh quốc tế; Ba là, tích hợp chức năng của đô thị trên tinh thần hiện đại hoá: Là đô thị cảng biển (hàng hoá hoặc du lịch); trung tâm công nghiệp thông minh; tổ hợp logictis kiểu mới; Bốn là, tư duy, cơ chế trao quyền phải gắn với chức năng đặc thù cho các đô thị biển để tăng tính chủ động, sáng tạo; Năm là, động lực phát triển phải dựa vào các doanh nghiệp tư nhân.
KTS. Trần Ngọc Chính - Chủ tịch Hội Quy hoạch Phát triển Đô thị Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng: Đô thị biển cũng phải có công nghiệp, có việc làm
Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định, phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học và các hệ sinh thái.
Hiện nay, Việt Nam có trên 50% dân số sống ở 28 tỉnh, thành phố ven biển và khoảng 50% các đô thị lớn của Việt Nam tập trung ở khu vực ven biển và trên đảo. Các đô thị biển của Việt Nam chỉ mới phát triển tập trung ở dải ven biển như TP. Hạ Long, Hải Phòng, Sầm Sơn, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Hội An, Quy Nhơn, Nha Trang, Vũng Tàu....
Với diện tích bờ biển dài từ Móng Cái đến Hà Tiên với hàng nghìn đảo và hệ sinh thái đa dạng, riêng với đô thị biển, chúng ta chỉ mới đang có 10 đô thị biển. Trong đó, TP. Đà Nẵng là một trong những thành phố biển gần như điển hình tốt nhất tại Việt Nam có sân bay, có cảng, có đường sắt và đường bộ.
Chúng ta đã bám biển và hình thành được rất nhiều đô thị biển có kết quả tốt về tốc độ phát triển chung kinh tế - xã hội. Điển hình như đô thị biển Quảng Ninh, đô thị biển Hải Phòng.
Mặt khác, đã nói đến đô thị thì phải nói đến công nghiệp, không có công nghiệp thì không có đô thị. Đô thị biển cũng phải có công nghiệp, có việc làm thì mới có điều kiện để phát triển bền vững thị trường bất động sản.
Tương lai chúng tôi hy vọng có sự kết nối giữa các khu vực biển miền Trung để hình thành một chuỗi đô thị biển gắn với phát triển kinh tế công nghiệp, gắn với các cảng biển.
Nói đến đô thị biển Việt Nam, các quốc qua trên thế giới rất mơ ước, ghen tỵ vì họ không có nhiều tiềm năng như nước ta với các cảng biển, bãi tắm đẹp, cảng nước sâu… Tuy nhiên, cũng có những bất cập như sau: Thứ nhất, chưa có tổng thể quy hoạch mạng lưới đô thị biển một cách bài bản; Thứ hai, các bãi biển rất đẹp nhưng việc xây dựng đã gần như chiếm hết diện tích để xây dựng và chia lô khiến người dân gần như mất hết các bãi tắm. Điều đó cho thấy quy định, giám sát về xây dựng biển chưa thực sự sát sao. Bên cạnh đó, quỹ đất cho phát triển không gian công cộng và hạ tầng đô thị bị hạn chế, làm giảm khả năng thoát nước tự nhiên, gây úng ngập cho đô thị trong trường hợp xảy ra mưa với cường độ lớn và làm gia tăng nguy cơ xói lở đường bờ biển dưới tác động của biến đổi khí hậu; Thứ ba, với xu hướng phát triển như hiện nay, các thành phố và thị trấn ven biển đang phải đối mặt với những thách thức về phát triển cân bằng khi mà môi trường tự nhiên ven biển, rừng ngập mặn ven biển, những cánh rừng phòng hộ quan trọng bị hủy hoại dưới tác động của các hoạt động kinh tế và đô thị hóa. Ngoài ra, những biến động về điều kiện tự nhiên và môi trường... cũng đang là những thách thức lớn mà các đô thị ven biển phải đối mặt.
Đề cập đến bất cập trong quy hoạch đô thị ven biển, Chủ tịch Hội Quy hoạch Phát triển đô thị Việt Nam chia sẻ, hiện nay, phần lớn các đô thị có biển, không gian dải ven biển luôn được ưu tiên quy hoạch cho mục đích phát triển các công trình dịch vụ du lịch nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho du lịch phát triển. Các đô thị biển có thể phát triển chức năng chủ đạo đem lại bản sắc khác biệt như: Sinh thái, nghỉ dưỡng, đô thị đại học, kinh tế tài chính, ngư nghiệp, cảng biển hay giao thương quốc tế... Nó có thể tạo thành một mạng lưới đô thị biển quốc gia đa dạng, kết nối với nhau qua hệ thống đường thủy cũng như đường bộ ven biển.
Tuy nhiên đối với khu vực ven biển: Quy hoạch xây dựng và công tác quản lý đầu tư xây dựng theo quy hoạch chưa được quan tâm đúng mức nên chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý và phát triển; nhiều dự án tập trung ven biển dẫn đến thiếu không gian, cự ly cần thiết để tạo không gian công cộng dành cho cộng đồng...
Vì vậy cần một số giải pháp để quy hoạch đô thị ven biển phát triển bền vững. Cụ thể, để tăng cường công tác quản lý về quy hoạch, đầu tư xây dựng và đảm bảo khai thác hiệu quả, bền vững quỹ đất ven biển, ứng phó, thích nghi với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, theo ông Chính cần thực hiện một số giải pháp sau: Các loại đất ven biển đều phải thực hiện theo quy hoạch và tất cả các chính sách của Nhà nước liên quan cũng phải được xem xét đưa vào quy hoạch.
Để tăng cường công tác quản lý về quy hoạch, đầu tư xây dựng và đảm bảo khai thác hiệu quả, bền vững quỹ đất ven biển, ứng phó, thích nghi với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, cần thiết phải có sự điều chỉnh các văn bản pháp luật, bổ sung các quy chuẩn, tiêu chuẩn thiết kế quy hoạch xây dựng, đáp ứng yêu cầu phát triển của khu vực ven biển. Cần phân loại dự án ưu tiên đầu tư xây dựng và có giải pháp cụ thể đối với từng nhóm dự án nhằm đảm bảo việc đầu tư xây dựng có hiệu quả, tránh lãng phí đất đai, bảo vệ môi trường và ứng phó, thích nghi với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Việt Anh (tổng hợp)