Quy hoạch sử dụng đất thời 4.0: Cơ hội, thách thức và giải pháp căn cơ - Bài 2: Nhiều khó khăn, bất cập

Thứ năm, 23/11/2023, 15:55 (GMT+7)
logo Bối cảnh toàn cầu hóa 4.0 song hành với cuộc cạnh tranh khốc liệt trên toàn cầu về khoa học và công nghệ đặt ra không ít thách thức đối với quy hoạch sử dụng đất khi muốn nâng cao chất lượng công việc theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ, phát triển bền vững và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Còn tồn tại một số bất cập cần khắc phục, tháo gỡ

Theo nhóm nghiên cứu (Đỗ Thị Tám, Trương Đỗ Thùy Linh; Nguyễn Thị Khuy; Tạ Thuyết Thái; Vũ Kỳ Long) tại vấn đề "Quy hoạch sử dụng đất tại Việt Nam trong thời đại 4.0: Cơ hội và thách thức" được công bố trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quản lý đất đai toàn quốc Lần 1 do Học Viện Nông nghiệp Việt Nam tổ chức năm 2023. Trong đề tài này cho biết, việc quy định nhiều cấp quy hoạch, vừa phải căn cứ lẫn nhau, vừa phải tuân thủ nhiều chỉ tiêu trùng lặp nên dẫn tới tình trạng kéo dài thời gian lập và xét duyệt quy hoạch, chất lương quy hoạch khó đảm bảo. Một số địa phương lập quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn mới,... chưa đồng bộ với quy hoạch sử dụng đất; hoặc thời gian thực hiện dự án “lệch” với thời gian triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện, dẫn đến phải điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Theo Báo cáo số 115/BC-BTNMT ngày 26/9/2022 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về báo cáo đánh giá tình hình thi hành Luật Đất đai năm 2013 và định hướng sửa đổi Luật Đất đai cho biết, bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác này còn tồn tại một số bất cập cần khắc phục, tháo gỡ. Hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và các quy hoạch có sử dụng đất chưa bảo đảm tính tổng thể, thống nhất và đồng bộ. Chất lượng quy hoạch chưa cao, thiếu tầm nhìn dài hạn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững.

Theo nhóm nghiên cứu (Đỗ Thị Tám; Trương Đỗ Thùy Linh; Nguyễn Thị Khuy; Vũ Kỳ Long) tại vấn đề này "Quy hoạch sử dụng đất tại Việt Nam trong thời đại 4.0: Cơ hội và thách thức" cũng cho rằng, quy trình thẩm định (Nghị định 37/2019/NĐ-CP) và phê duyệt (Nghị quyết 77/NQ-CP) quy hoạch mất nhiều thời gian. Theo quy định, hồ sơ quy hoạch tỉnh phải tham gia ý kiến thẩm định, rà soát của các Bộ, ngành và thành viên thẩm định 03 lần: Rà soát, tham gia ý kiến tham định quy hoạch; Rà soát, tham gia ý kiến sau khi hoàn thiện báo cáo theo kết luận của Hội đồng thẩm định và rà soát khi trình Thủ tướng phê duyệt. Thời gian các Bộ, ngành tham gia ý kiến và thời gian cơ quan lập quy hoạch hoàn thiện quy hoạch rất chậm. Quy hoạch ngành quốc gia (tổ chức thẩm định khoảng 190 ngày, xem xét phê duyệt 160 ngày); quy hoạch tỉnh (tổ chức thẩm định khoảng 100 ngày, hoàn thiện hồ sơ trình phê duyệt khoảng 100 ngày, xem xét phê duyệt khoảng 70 ngày)…

Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn nhiều khó khăn cần tháo gỡ

Do tính chất tích hợp, toàn diện của các quy hoạch nói chung (đặc biệt là quy hoạch tỉnh), việc phối hợp, tham gia ý kiến trong quá trình lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch rất khó khăn, thời gian cho ý kiến thẩm định và phê duyệt quy hoạch thường kéo dài. Thời gian các Bộ cần để lấy ý kiến thẩm định khoảng 35 ngày. Việc rà soát tổng thể quy hoạch tỉnh (theo Nghị quyết 77/NQ-CP) liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực và đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều Bộ, ngành nên mất nhiều khá thời gian.

Theo nhóm nghiên cứu (Đỗ Thị Tám; Trương Đỗ Thùy Linh; Tạ Thuyết Thái; Vũ Kỳ Long, Nguyễn Thị Khuy) tại vấn đề "Quy hoạch sử dụng đất tại Việt Nam trong thời đại 4.0: Cơ hội và thách thức" được công bố trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quản lý đất đai toàn quốc Lần 1 do Học Viện Nông nghiệp Việt Nam tổ chức năm 2023 thì, pháp luật chưa quy định cụ thể trong từng trường hợp được điều chỉnh nội dung cụ thể gì trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Việc điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất theo rà soát định kỳ; hoặc điều chỉnh cục bộ quy hoạch chưa được xem xét kỹ lưỡng: phải điều chỉnh quy hoạch nhiều lần; một số tỉnh, thành phố chậm trong việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất. Điều này làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng quy hoạch, khiến đất đai chưa biến thành nội lực như mong muốn.

Như vậy, việc điều chỉnh quy hoạch cần phải quy định chặt chẽ để tránh sự tùy tiện, chỉ cho phép điều chỉnh trong các trường hợp như: Có sự điều chỉnh mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, xét duyệt mà sự điều chỉnh đó làm thay đổi cơ cấu sử dụng đất; do tác động của thiên tai, chiến tranh làm thay đổi mục đích, cơ cấu, vị trí, diện tích sử dụng đất; có sự điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất của cấp trên trực tiếp làm ảnh hưởng tới quy hoạch sử dụngh đất của cấp mình; có sự điều chỉnh địa giới hành chính của địa phương.

Xác định chỉ tiêu sử dụng đất theo khu chức năng chưa thống nhất

Theo nhóm nghiên cứu (Đỗ Thị Tám; Trương Đỗ Thùy Linh; Tạ Thuyết Thái; Vũ Kỳ Long, Nguyễn Thị Khuy) tại vấn đề "Quy hoạch sử dụng đất tại Việt Nam trong thời đại 4.0: Cơ hội và thách thức" được công bố trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quản lý đất đai toàn quốc Lần 1 do Học Viện Nông nghiệp Việt Nam tổ chức năm 2023 đã đưa ra phân tích, chỉ tiêu sử dụng đất (giai đoạn 1987-2003). Thời kỳ thực hiện Luật Đất đai 1987, chủ yếu đề cập đến chỉ tiêu sử dụng đất cấp xã theo chỉ tiêu thống kê đất đai, gồm 05 loại đất chính: Đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất khu dân cư, đất chuyên dùng và đất chưa sử dụng.

Thời kỳ thực hiện Luất Đất đai năm 1993, chỉ tiêu sử dụng đất trong quy hoạch sử dụng đất của các cấp hành chính (cả nước, tỉnh, huyện, xã) với 06 loại đất. Trong đó, chỉ tiêu “Đất khu dân cư nông thôn” và “Đất đô thị là chỉ tiêu tổng hợp bao gồm nhiều chỉ tiêu sử dụng đất khác (có thể lên đến 40 chi tiêu). Các chỉ tiêu sử dụng đất được áp dụng chung cho quy hoạch sử dụng đất các cấp. Có một số chỉ tiêu sử dụng đất thay đổi là: “Đất lâm nghiệp” được thay bằng “đất lâm nghiệp có rừng”; “Đất chưa sử dụng” được thay bằng “đất chưa sử dụng và sông suối, núi đá”. Đất nông nghiệp được quy định chi tiết gồm 27 chỉ tiêu, phân thành 5 chỉ tiêu chính là: Đất trồng cây hàng năm, đất vườn tạp, đất trồng cây lâu năm, đất cỏ dành cho chăn nuôi, đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản và khi lập quy hoạch sử dụng đất được lập thành biểu riêng.

Tháo gỡ khó khăn về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tạo điều kiện cho kinh tế, xã hội phát triển

Giai đoạn từ 2003-2013, trước khi có Nghị định số 69/2009/NĐ-CP, chỉ tiêu sử dụng đất áp dụng chung cho các cập hành chính với 63 chỉ tiêu (59 chỉ tiêu chính thức và 4 chỉ tiêu quan sát). Với 4 nhóm đất lớn là: Đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp, đất chưa sử dụng và đất có mặt nước ven biển.

Sau khi có Nghị định số 69/2009/NĐ-CP, chỉ tiêu sử dụng đất được quy định riêng đối với từng cấp hành chính theo hướng: Quy hoạch cấp trên chỉ thể hiện một số chỉ tiêu sử dụng đất có tính chất bao trùm và mang tầm chiến lược, cần bảo vệ nghiêm ngặt; số lượng chỉ tiêu sử dụng đất được chi tiết và tăng dần từ cấp trên xuống cấp dưới. Trong đó, quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia tập trung vào các nội dung mang tính chiến lược gồm 13 chỉ tiêu. Cụ thể là chỉ tiêu đất nông nghiệp gồm 3 chỉ tiêu chi tiết là đất lúa nước, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng. Đất phi nông nghiệp có 6 chỉ tiêu chi tiết là: Đất quốc phòng, đất an ninh, đất khu công nghiệp, đất phát triển hạ tầng, đất di tích, danh thắng và đất để xử lý, chôn lấp chất thải nguy hại còn 2 chỉ tiêu là đất đô thị và đất khu bảo tồn thiên nhiên. Cấp tỉnh gồm 21 chỉ tiêu, gồm 6 chỉ tiêu đất nông nghiệp (đất lúa nước, đất trồng cây lâu năm, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất) và 11 chỉ tiêu đất phi nông nghiệp đất xây dựng trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp; đất quốc phòng, đất an ninh, đất khu công nghiệp, đất cho hoạt động khoáng sản; đất di tích, danh thắng; đất để xử lý, chôn lấp chất thải nguy hại; đất tôn giáo, tín ngưỡng; đất nghĩa trang, nghĩa địa; đất phát triển hạ tầng. Ba chỉ tiêu khác là đất đô thị, đất khu bảo tồn thiên nhiên; đất khu du lịch.

Không có sự thống nhất về chỉ tiêu sử dụng đất giữa các thời kỳ, giữa các cấp làm quy hoạch và giữa quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất với thống kê kiểm kê đất đai trong từng thời kỳ. Điều đó dẫn đến khó khăn trong công tác thống kê, kiểm kê đất đai và quản lý sử dụng đất.

Trước Nghị định số 69/2009/NĐ-CP chỉ tiêu sử dụng đất trong quy hoạc sử dụng đất thống nhất với chỉ tiêu sử dụng đất trong thống kê, kiểm kê đất đai, gồm 42 chỉ tiêu và dùng chung cho cả 4 cấp lập quy hoạch sử dụng đất. Sau đó chỉ tiêu sử dụng đất trong quy hoạch sử dụng đất được quy định cho từng cấp theo hướng chỉ tiết dần từ cấp vĩ mô xuống cấp vi mô. Các chỉ tiêu này được hình thành từ chỉ tiêu sử dụng đất trong thống kê, kiểm kê đất đai, trên cơ sở tổ hợp các chỉ tiêu tương đồng về chức năng và có bổ sung một số chỉ tiêu như đô thi; đất để xử lý, chôn lấp chất thải nguy hại; đất phát triển hạ tầng có tầm quan trọng quốc gia.

Thời kỳ thực hiện Luật Đất đai năm 2013: Các loại đất không thể hiện trong chi tiêu sử dụng đất trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia được tổng hợp chung trong mục đất nông nghiệp còn lại hoặc đất phi nông nghiệp còn lại. Một số chỉ tiêu quan sát trong thống kê, kiểm kê đất đai cũng không thể hiện trong quy hoạch, kế hoạch cấp quốc gia, như: Đất mặt nước ven biển nuôi trồng thủy sản; Đất mặt nước ven biển có rừng; Đất mặt nước ven biển có mục đích khác. Một số chỉ tiêu có tính không gian, như: Đất khu công nghệ cao, Đất đô thị, Đất khu kinh tế cũng vậy.

Theo nhóm nghiên cứu trên, sự thay đổi về chỉ tiêu sử dụng đất trong quy hoạch sử dụng đất với cả loại chỉ tiêu và số lượng chỉ tiêu điều đó làm khó khăn cho công tác lập, quản lý và thực hiện quy hoạch sử dụng đất. Giai đoạn gần đây đã làm rõ phạm vi quy hoạch sử dụng đất của từng cấp phải thể hiện. Do vậy, việc phân cấp chỉ tiêu theo từng cấp đã thể hiện rõ quan điểm khống chế, bảo vệ chặt chẽ các chỉ tiêu sử dụng đất theo quy định, đồng thời tạo điều kiện để người sử dụng đất thực hiện các chuyển dịch đất đai một cách linh động. Một số chỉ tiêu sử dụng đất không gian sử dụng (đất đô thị, đất khu dân cư, đất khu bảo tồn thiên nhiên, đất khu du lịch,...) đã có chế độ quản lý phù hợp theo quy định của pháp luật. Việc quy định các chỉ tiêu sử dụng đất theo loại đất và theo khu chức năng góp phần khai thác tiềm năng, lợi thế của từng khu vực đặc thù; đồng thời tăng tính liên kết vùng, góp phần bảo vệ cảnh quan và thích ứng với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, lại chưa quy định tiêu chí (đặc biệt là tiêu chí định lượng) đối với chỉ tiêu sử dụng đất theo khu chức năng nên việc xác định chỉ tiêu sử dụng đất theo khu chức năng chưa thống nhất.

Quy hoạch sử dụng đất cấp trên sẽ quyết định việc lập quy hoạch sử dụng đất ở cấp dưới

Luật Đất đai năm 2013 quy định UBND huyện có trách nhiệm xây dựng báo cáo tổng hợp, tiếp thu, giải trình ý kiến của nhân dân trước khi trình Hội đồng thẩm định quy hoạch sử dụng đất cấp huyện đồng thời khi UBND huyện lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện phải thể hiện nội dung sử dụng đất của cấp xã.

Tuy nhiên, theo nhóm nghiên cứu (Đỗ Thị Tám; Trương Đỗ Thùy Linh; Tạ Thuyết Thái; Vũ Kỳ Long, Nguyễn Thị Khuy) tại vấn đề "Quy hoạch sử dụng đất tại Việt Nam trong thời đại 4.0: Cơ hội và thách thức" cho rằng, Luật chưa quy định về sự tham gia của các tổ chức kinh tế - xã hội trong lập quy hoạch, quy hoạch sử dụng đất. Quy hoạch sử dụng đất cấp trên sẽ quyết định việc lập quy hoạch sử dụng đất ở cấp dưới, nên nếu chỉ lấy ý kiến nhân dân ở cấp thấp nhất sẽ không phát huy hết vai trò của nhân dân đối với công tác lập quy hoạch sử dụng đất. Pháp luật chưa quy định cụ thể về phương thức lấy ý kiến, tổng hợp ý kiến, giải trình, tiếp thu các ý kiến để hoàn thiện quy hoạch sử dụng đất. Về việc cần có cơ chế để người dân và chuyên gia các lĩnh vực tham gia và giám sát trong quá trình lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; và cần tăng cường thông tin, đảm bảo tính công khai, minh bạch, dễ dàng tiếp cận thông tin quy hoạch trên trang thông tin điện tử để xin ý kiến cộng đồng dân cư trước khi thẩm định quy hoạch.

Cần có kế hoạch bài bản, căn cơ trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc gia

Ở góc độ khác, hệ thống quy hoạch quốc gia được lập theo Luật Quy hoạch và các quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành thời kỳ 2021-2030 là thách thức rất lớn khi thực hiện mục tiêu phát huy có hiệu quả các nguồn lực phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững gắn với bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu, thực hiện chuyển đổi mô hình phát triển và cơ cấu lại nền kinh tế.

Việc tham gia tiến trình toàn cầu hóa, khu vực hóa tiếp tục đặt nước ta trước những thách thức kinh tế, đối ngoại, văn hóa, an ninh ngày càng gay gắt hơn. Đặc biệt, là thách thức rất lớn đối với hệ thống quản lý Nhà nước, trong đó có quản lý đất đai và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Bối cảnh toàn cầu hóa 4.0 song hành với cuộc cạnh tranh khốc liệt trên toàn cầu về khoa học và công nghệ đặt ra không ít thách thức đối với quy hoạch sử dụng đất khi muốn nâng cao chất lượng công việc theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ, phát triển bền vững và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

17 mục tiêu phát triển đất nước bền vững đến năm 2030 mà Chính phủ đề ra theo Nghị quyết số 136/NQ-CP ngày 29/5/2020 và quan điểm khi xây dựng quy hoạch sử dụng đất ở vùng nông thôn phải gắn kết với phát triển đô thị, khai thác và phát huy nguồn lực đất đai trong xây dựng, phát triển bển vững kinh tế nông thôn của Ban Chấp hành trung ương tại Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 mang đến nhiều thách thức cho công tác quản lý nhà nước nói chung và công tác quy hoạch sử dụng đất nói riêng, vì phải đổi mới, cải cách, vận động linh hoạt sao cho phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vừa đáp ứng yêu cầu thực tiễn địa phương, vừa hoàn thành tốt các mục tiêu đã đề ra.

Tình trạng ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu tại Việt Nam đang diễn ra phức tạp, nhất là tại các khu đô thi lớn, tập trung đông dân cư và hoạt động sản xuất, kinh tế - xã hội phức tạp, đòi hỏi phương án quy hoạch sử dụng đất cần đồng thời đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo vệ sinh môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu cho phát triển đất nước thời gian tới.

Nhiều địa phương gặp khó khăn trong cân đối nguồn lực đất đai theo chỉ tiêu sử dụng đất được phân bổ tại Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 09/3/2022 của Chính phủ. Trong khi đó, một số chỉ tiêu sử dụng đất chưa sát với thực tế của địa phương, chưa tạo được sự chủ động trong phát triển kinh tế - xã hội và có thể làm ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển đề ra trong quy hoạch.

Quốc hội vừa quyết định toàn bộ nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia do Chính phủ trình và quyết định một số vấn đề lớn, chỉ tiêu sử dụng đất quan trọng. Pháp luật quy định nội dung thẩm định quy hoạch sử dụng đất của các cấp còn chung chung, thiếu các chỉ tiêu, tiêu chí cụ thể để đánh giá về hiệu quả kinh tế - xã hội, môi trường; đánh giá tính khả thi của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Trách nhiệm của cấp lập, quyết định, xét duyệt quy hoạch quy định chưa chặt chẽ. Chưa quy định cụ thể về thủ tục, thời gian lập và hoàn thành lập quy hoạch, thời gian xét duyệt, chỉ tiêu quyết định, xét duyệt quy hoạch sử dụng đất của toàn hệ thống và của từng cấp nên khi thực hiện còn chậm. Việc trình Hội đồng Nhân dân cùng cấp thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trước khi trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt cũng gây khó khăn đối với những địa phương đang thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng Nhân dân.

https://tainguyenvamoitruong.vn/quy-hoach-su-dung-dat-thoi-4-0-co-hoi-thach-thuc-va-giai-phap-can-co-bai-1-cong-cu-quan-trong-de-nha-nuoc-thong-nhat-quan-ly-dat-dai-cid111568.html

Nhất Nam