Mỗi mùa gặt đi qua, nhiều khu vực sản xuất nông nghiệp lại chìm trong những làn khói trắng đặc quánh bốc lên từ rơm rạ sau thu hoạch. Dù đã có quy định cấm và chế tài xử phạt, việc đốt rơm rạ vẫn diễn ra như một vòng lặp khó dứt. Đằng sau những đám khói làm giảm chất lượng không khí là câu chuyện của tập quán canh tác lâu đời, áp lực kinh tế và việc chưa tìm được giải pháp thay thế phù hợp để người dân yên tâm chuyển đổi. Khi rơm rạ chưa thực sự được nhìn nhận như một nguồn tài nguyên, hành trình chấm dứt “mùa khói” vẫn còn nhiều thách thức.
Mỗi năm, vào cao điểm mùa gặt, vùng ngoại thành Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ lại mờ mịt trong khói trắng đặc quánh, cản trở tầm nhìn, gây khó thở,.... Khói này không đến từ nhà máy hay xe cộ, mà từ chính việc đốt rơm rạ sau thu hoạch. Dù pháp luật đã cấm và cảnh báo ô nhiễm không khí gia tăng, nhưng thực trạng vẫn kéo dài, trở thành “áp lực môi trường” lớn.
Tập quán lâu đời và “phép công thua tình riêng”
Theo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), hiện vẫn có khoảng 70% phụ phẩm nông nghiệp trên cả nước bị đốt bỏ. Riêng tại Hà Nội, tỷ lệ đốt rơm rạ trong vụ đông - xuân ước tính khoảng 20%. Mặc dù Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã nghiêm cấm hành vi này và Nghị định số 45/2022/NĐ-CP quy định mức phạt lên tới 3 triệu đồng, nhưng hiệu quả răn đe thực tế vẫn còn hạn chế.
Thực tế, hoạt động đốt rơm rạ tại các vùng nông thôn Việt Nam, thường diễn ra vào chiều tối, trên các cánh đồng xa khu dân cư, cùng lực lượng giám sát mỏng, dẫn đến khó phát hiện và xử lý triệt để. Mặc dù Luật Bảo vệ môi trường 2020 và các Nghị định liên quan đã quy định chế tài xử phạt hành vi đốt rơm rạ, song việc kiểm tra, giám sát và thực thi trên thực tế vẫn còn hạn chế. Nhiều địa phương gặp khó khăn về nhân lực, cơ chế phối hợp và nguồn lực xử lý vi phạm, dẫn đến tình trạng hành vi đốt rơm rạ chưa được kiểm soát triệt để.
Cụ thể, UBND TP. Hà Nội đã ban hành Chỉ thị số 15/CT-UBND 2020 về quản lý hoạt động đốt rơm rạ và phụ phẩm cây trồng, ghi nhận rõ: Hiện nay, hoạt động đốt rơm rạ, phụ phẩm cây trồng,… diễn ra phổ biến tại các địa phương. Tuy nhiên, công tác quản lý, giám sát tại nhiều địa phương vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, khiến tình trạng đốt rơm rạ vẫn gia tăng tại Hà Nội (2022) Nghệ An (2025), Ninh Bình, Thái Bình (2024),…
Trên thực tế, nhiều xã thiếu cán bộ chuyên trách, nên không ít vụ việc về xử lý vi phạm môi trường đều được “hòa giải”, bên cạnh đó, cũng có nhiều cấp xã “ngại va chạm” khi xử lý các cơ sở vi phạm là hộ dân sinh sống lâu đời, có mối quan hệ thân quen hoặc đóng góp kinh tế lớn cho địa phương. Tình trạng “nể nang, né tránh” khiến các hành vi vi phạm “được bỏ qua” thay vì xử lý theo đúng quy định, dẫn đến hiện tượng nhờn luật, tái phạm kéo dài.
Ông Phạm Văn Sơn, Tổng Thư ký Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam - Giám đốc Trung tâm Ứng phó sự cố môi trường Việt Nam, nhận định: “Thực ra, không phải do chúng ta thiếu quy định hay chế tài, mà vấn đề nằm ở khâu thực thi. Ở nhiều địa phương, chính bởi “phép công thua tình riêng”, vậy nên đã khiến công tác thực hiện áp dụng xử phạt gặp nhiều rào cản. Khi chỉ có văn bản mà thiếu sự giám sát chặt chẽ, thiếu cơ chế hỗ trợ song hành, thì rất khó thay đổi một tập quán đã tồn tại lâu đời...”
Bài toán kinh tế: “Nhanh - rẻ - tiện” ?
Có thể thấy, người nông dân đã chọn “giải pháp” đốt rơm rạ không chỉ vì thói quen, mà còn vì tính kinh tế: Nhanh, gọn, không tốn chi phí. Trong khi đó, các phương pháp thay thế như dùng chế phẩm vi sinh, ủ phân hữu cơ hay sản xuất viên nén sinh khối đòi hỏi thiết bị, thời gian và kiến thức kỹ thuật, được coi là những yếu tố người nông dân khó tiếp cận.
Thị trường tiêu thụ rơm rạ chưa ổn định, giá thu mua thấp, không đủ bù công thu gom và vận chuyển, khiến họ chọn giải pháp dễ dàng nhất để kịp thời vụ. Lợi ích của xử lý sinh học như cải tạo đất, tăng năng suất lúa,... chỉ thể hiện sau vài vụ, trong khi đốt rơm cho hiệu quả tức thời là “ruộng sạch ngay”.
Và dù đã có khung pháp luật quy định rõ, nhưng việc thực thi tại cơ sở vẫn gặp khó khăn bởi thói quen canh tác lâu đời, cũng như thiếu thông tin về các mô hình tận dụng rơm rạ hiệu quả. Vấn đề không nằm ở việc chờ hỗ trợ, mà ở chỗ người dân chưa nhìn thấy lợi ích kinh tế trước mắt và lâu dài khi chuyển đổi. Khi được kết nối với đơn vị thu mua, hướng dẫn ủ vi sinh hoặc tái sử dụng rơm rạ, nhiều địa phương cho thấy hành vi đốt giảm mạnh.
Trong khi đó, rơm rạ nếu được xử lý hợp lý hoàn toàn có thể trở thành nguồn lợi kinh tế. Trong Dự án “Giảm thiểu đốt ngoài trời và sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật” năm 2024 của Liên minh toàn cầu về sức khoẻ và ô nhiễm (GAHP), dưới sự tài trợ của Chính phủ Vương quốc Anh tài trợ thông qua Bộ Môi trường, Thực phẩm và Nông thôn (Defra), phối hợp với Hội Bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE) năm 2023-2024, đã có nhiều mô hình thí điểm tại An Giang, Ninh Bình, Đồng Nai cho thấy, khi sử dụng chế phẩm vi sinh để xử lý rơm rạ ngay trên đồng ruộng, lượng khí thải giảm rõ rệt, đất được cải tạo tốt hơn, chi phí sản xuất giảm, năng suất tăng. Ước tính từ mô hình thử nghiệm cho thấy, mỗi hecta lúa có thể mang lại thêm từ vài triệu đến hàng chục triệu đồng nếu rơm rạ được tận dụng đúng cách.
Đồng thời, thay vì tập trung vào trợ giá hay hỗ trợ máy móc, điều quan trọng là giúp người dân nhìn thấy lợi ích kinh tế trực tiếp từ việc tận dụng rơm rạ, thông qua cơ chế: Bán cho đơn vị thu mua, sử dụng làm phân hữu cơ, viên nén sinh khối hoặc nguyên liệu trồng nấm. Khi đầu ra được kết nối rõ ràng, rơm rạ mới có thể trở thành tài nguyên. Điều cốt lõi là cung cấp thông tin, mô hình thực tế để người dân tự tin chuyển đổi; tránh tạo tâm lý phụ thuộc vào hỗ trợ. Khi thấy được hiệu quả, cộng đồng sẽ chủ động làm theo mà không cần trông chờ…
Ông Phạm Văn Sơn cũng cho rằng, nếu chỉ áp dụng chế tài mà không có giải pháp thay thế phù hợp, nông dân sẽ khó thay đổi. Do đó, cần tạo ra lợi ích thực sự để họ thấy rằng: Không đốt và xử lý rơm rạ bằng vi sinh có thể đem lại thuận lợi canh tác và tăng thêm thu nhập. Khi một mô hình thành công, hiệu ứng lan tỏa sẽ kéo theo nhiều địa phương khác làm theo, tạo thành thói quen mới.
Rơm rạ không vô nghĩa; nó có thể trở thành năng lượng, phân hữu cơ, hay sinh kế mới. Vấn đề là địa phương sở tại phải kết nối được lợi ích kinh tế để nông dân chủ động thay đổi thay vì bị ép buộc.
Từ “vô giá trị” thành “tài nguyên”
Rơm rạ từng bị coi là thứ không có giá trị, là phế phẩm nông nghiệp,... tuy nhiên hiện nay, trong bối cảnh biến đổi khí hậu và chuyển đổi nông nghiệp “xanh”, những phụ phẩm này (bao gồm rơm rạ, bã ngô, khoai,...) đang trở thành một nguồn tài nguyên quý giá. Thay vì đốt bỏ, rơm rạ có thể trở thành nguyên liệu sản xuất tạo nên giá trị nông nghiệp bền vững như nhiên liệu sinh học, viên nén sinh khối, trồng nấm từ rơm...
Như vậy, để có thể biến những phụ phẩm nông nghiệp bị coi là “vô giá trị” thành “tài nguyên”, cần sự vào cuộc đồng bộ của cơ quan quản lý Nhà nước, chính quyền địa phương, doanh nghiệp và người dân. Chỉ khi chính sách đi cùng thực tiễn, luật pháp được thực thi nghiêm minh, và người nông dân biết tận dụng lợi ích của phụ phẩm nông nghiệp một cách cụ thể, tập quán đốt rơm rạ mới có thể chấm dứt.
Và chuyển đổi bền vững không bắt đầu từ việc chờ đợi, mà từ hành động chủ động của từng mắt xích: Nông dân thu gom và bán rơm rạ; doanh nghiệp thu mua - chế biến tạo ra sản phẩm mới; chính quyền địa phương đóng vai trò kết nối cung - cầu. Khi lợi ích kinh tế hiện hữu và thị trường phụ phẩm được khơi thông, các hành vi cũ sẽ tự thay đổi, biến rơm rạ thành giá trị của một nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn và phát thải thấp.