Những năm qua, kinh tế biển đã và đang đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Quảng Trị, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân ven biển. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế, việc khai thác tài nguyên biển Quảng Trị vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức như khai thác chưa hợp lý, nguy cơ suy giảm nguồn lợi thủy sản, ô nhiễm môi trường biển và tác động ngày càng rõ nét của biến đổi khí hậu.
Nhằm khai thác và sử dụng tài nguyên biển một cách hiệu quả, bền vững, tại Diễn đàn “Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên biển và hải đảo Việt Nam” do Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị tổ chức vào ngày 17/12/2025, ông Phan Hùng, Phó trưởng Phòng - Phòng Biển, Đảo và Tài nguyên nước, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị, đã phân tích rõ thực trạng tài nguyên biển của địa phương, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp mang tính chiến lược và lâu dài.
Tiềm năng, lợi thế của biển Quảng Trị
Quảng Trị sở hữu bờ biển dài cùng nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú, tạo nền tảng quan trọng để phát triển kinh tế biển theo hướng bền vững. Với lợi thế về du lịch, thủy sản, năng lượng tái tạo, công nghiệp, cảng biển và dịch vụ logistics, kinh tế biển Quảng Trị đang từng bước khẳng định vai trò là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương.
Trước hết, Quảng Trị có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch biển. Địa phương có bờ biển dài với các bãi tắm đẹp còn giữ được nhiều nét hoang sơ như Cửa Tùng, Cửa Việt, Vĩnh Thái, Triệu Lăng,… kết hợp với cảnh quan thiên nhiên đa dạng, môi trường sinh thái trong lành. Bên cạnh đó, lợi thế liên kết vùng với hệ thống hang động kỳ vĩ phía Tây, các khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia lân cận, cùng hệ thống di tích lịch sử – văn hóa đặc sắc đã và đang tạo điều kiện thuận lợi để Quảng Trị xây dựng, phát triển các tổ hợp nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, vui chơi giải trí chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhiều phân khúc du khách.
Không chỉ có lợi thế về du lịch, vùng biển Quảng Trị còn có trữ lượng hải sản lớn, ước khoảng 100.000 tấn với hơn 1.650 loài sinh vật biển, trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao như tôm hùm, tôm sú, mực nang, mực ống,… Toàn tỉnh có gần 15.000 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản nhờ hệ thống 7 cửa sông đổ ra biển. Điều kiện tự nhiên thuận lợi với chế độ bán nhật triều, độ mặn dao động từ 8–30‰, pH từ 6,5–8 đã tạo môi trường phù hợp để phát triển nuôi trồng các đối tượng thủy sản có giá trị xuất khẩu như tôm, cá mú, cua biển. Đây là lợi thế quan trọng để tỉnh phát triển nghề cá theo hướng bền vững, gắn khai thác với bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
Cùng với đó, Quảng Trị được đánh giá là địa phương có nhiều tiềm năng phát triển các nguồn năng lượng tái tạo. Nằm trong vành đai nhiệt đới Bắc Bán cầu, tỉnh có nền nhiệt độ cao, bức xạ mặt trời lớn. Khu vực đồng bằng ven biển có từ 1.650–1.820 giờ nắng mỗi năm, tổng bức xạ đạt 1.256–1.418 kWh/m²/năm, rất thuận lợi cho phát triển điện mặt trời. Ngoài ra, vận tốc gió trung bình từ 6–6,75 m/s ở độ cao 120 m trên cả biển và đất liền được đánh giá là điều kiện thuận lợi để phát triển các dự án điện gió quy mô lớn, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu năng lượng theo hướng xanh và bền vững.
Song song với đó, công nghiệp và các khu kinh tế ven biển của tỉnh cũng đang phát triển tương xứng với tiềm năng. Khu kinh tế Hòn La với diện tích khoảng 10.000 ha và Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị rộng gần 23.800 ha đã được điều chỉnh quy hoạch phù hợp với Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam. Đây đều là các khu kinh tế tổng hợp đa ngành, đã lập và phê duyệt quy hoạch chi tiết các khu chức năng, đồng thời từng bước đầu tư hạ tầng kỹ thuật như giao thông nội vùng, đê biển, kè bảo vệ bờ và hệ thống thoát nước. Nhiều khu công nghiệp, khu đô thị ven biển đang được định hướng phát triển theo mô hình sinh thái, sử dụng hiệu quả tài nguyên, cải thiện môi trường và nâng cao chất lượng sống cho người dân.
Từ những tiềm năng, lợi thế đó, kinh tế hàng hải và các ngành kinh tế biển mới của Quảng Trị cũng đang phát triển mạnh mẽ. Tỉnh đã khai thác hiệu quả hệ thống cảng biển và công bố quy hoạch vùng đất, vùng nước cảng biển giai đoạn 2021–2030. Trong giai đoạn 2024–2025, lượng hàng hóa thông qua các cảng đạt trên 5 triệu tấn. Hiện nay, Quảng Trị đang xúc tiến triển khai 10 dự án cảng biển, trong đó bến cảng tổng hợp quốc tế Hòn La và cảng biển Mỹ Thủy là hai dự án trọng điểm đang được xây dựng.
Tỉnh cũng ưu tiên hoàn thiện hạ tầng logistics và các tuyến giao thông kết nối các cảng Hòn La, Mỹ Thủy với Quốc lộ 12, Quốc lộ 9 và các hành lang kinh tế kết nối sang Lào, Thái Lan, Myanmar. Công tác bảo đảm an toàn hàng hải, duy tu, nạo vét luồng lạch được duy trì thường xuyên. Đồng thời, Quảng Trị chú trọng kêu gọi đầu tư phát triển đội tàu vận tải biển – sông biển hiện đại, đáp ứng nhu cầu vận tải hàng hóa, du lịch biển và kết nối các điểm du lịch ven bờ, góp phần thúc đẩy kinh tế biển phát triển toàn diện và bền vững.
Nâng cao hiệu quả quản lý, kiểm soát ô nhiễm môi trường biển
Nhằm quản lý, bảo vệ hiệu quả hệ sinh thái biển và hướng tới phát triển bền vững kinh tế biển, thời gian qua tỉnh Quảng Trị luôn chú trọng nâng cao công tác kiểm soát, ngăn ngừa và giảm thiểu ô nhiễm môi trường biển. Tỉnh tập trung xử lý kịp thời các vấn đề ô nhiễm, sự cố môi trường biển, đặc biệt là rác thải nhựa đại dương, thông qua triển khai đồng bộ nhiều giải pháp thiết thực.
Theo đó, Quảng Trị tích cực thực hiện các chương trình bảo vệ môi trường biển và hải đảo; đẩy mạnh quản lý rác thải nhựa đại dương và phối hợp triển khai dự án giảm thiểu rác thải nhựa tại các địa phương như Đồng Hới, Đông Hà và huyện đảo Cồn Cỏ. Công tác phòng ngừa, ứng phó với sự cố tràn dầu, hóa chất độc hại được tăng cường; đồng thời duy trì hiệu quả phong trào chống rác thải nhựa, các mô hình thu gom rác trên tàu cá và kiểm soát ô nhiễm môi trường biển theo đúng quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, Quảng Trị đang triển khai mạng lưới quan trắc môi trường theo các quyết định của Trung ương và của tỉnh; tổ chức quan trắc nước biển ven bờ, cửa sông hằng năm và từng bước hoàn thiện hệ thống quan trắc, cảnh báo môi trường, phục vụ công tác quản lý tài nguyên và môi trường biển một cách chủ động, hiệu quả.
Trong công tác ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, Quảng Trị ưu tiên đầu tư cho công tác điều tra cơ bản, ứng dụng các công nghệ mới trong giám sát, quản lý tài nguyên và môi trường biển. Những kết quả này góp phần phục vụ phát triển các ngành kinh tế biển mũi nhọn như cảng biển, du lịch, nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản, dịch vụ biển và điện gió ngoài khơi. Đến nay, tỉnh đã triển khai 5 đề tài khoa học cấp tỉnh làm cơ sở định hướng sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ, đồng thời hoàn thành lập hồ sơ tài nguyên hải đảo Quảng Trị.
Đặc biệt, tỉnh đã triển khai các dự án phục hồi hệ sinh thái thủy sinh và nguồn lợi thủy sản; thành lập 2 tổ đồng quản lý ven bờ, thực hiện thả rạn nhân tạo, phục hồi san hô; tăng cường quản lý Khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản Hòn La – Vũng Chùa; tiến hành điều tra đa dạng sinh học ven biển Bắc Quảng Trị và triển khai kế hoạch quản lý, đánh giá đa dạng sinh học tại Khu bảo tồn biển Cồn Cỏ.
Thời gian tới, Quảng Trị tiếp tục đầu tư nâng cấp, cải tạo hệ thống đê biển; đẩy mạnh trồng, bảo vệ rừng phòng hộ ven biển, qua đó góp phần phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi trường sinh thái và tạo nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững kinh tế – xã hội khu vực ven biển của tỉnh.
Giải pháp, định hướng sử dụng tài nguyên biển và hải đảo
Nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế biển và hải đảo gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia, thời gian qua tỉnh Quảng Trị đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, định hướng sử dụng tài nguyên biển và hải đảo theo hướng bền vững, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế biển của cả nước.
Trước hết, tỉnh tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của kinh tế biển gắn với quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền biển đảo. Đồng thời, chú trọng phổ biến thông tin, kiến thức pháp luật về biển, đảo; phòng, chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU); nâng cao ý thức bảo vệ môi trường biển, hải đảo. Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phục vụ các ngành kinh tế biển tiếp tục được quan tâm, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.
Bên cạnh đó, tỉnh cũng chủ động rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch và các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế biển theo hướng bền vững, bảo đảm phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia và quy hoạch vùng. Công tác liên kết, hợp tác với các địa phương trong phát triển du lịch và thủy sản được đẩy mạnh, hướng tới xây dựng các sản phẩm du lịch biển đặc thù; mở rộng nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ cao, nuôi biển; phát triển các nghiệp đoàn nghề cá, tạo điều kiện cho ngư dân khai thác xa bờ an toàn, hiệu quả.
Tỉnh cũng tập trung huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển bền vững kinh tế biển. Nhiều dự án trọng điểm đang được ưu tiên triển khai như: Khu kinh tế Hòn La, Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị; Nhà máy Nhiệt điện LNG Quảng Trạch II, LNG Hải Lăng; Cảng Hàng không Đồng Hới, Cảng Hàng không Quảng Trị; Cảng biển Mỹ Thủy, Cảng quốc tế Hòn La; các khu du lịch nghỉ dưỡng ven biển, cùng các dự án điện gió gần bờ và ngoài khơi, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế biển.
Song song với phát triển, tỉnh tăng cường quản lý, bảo vệ tài nguyên biển, chú trọng phát triển đội tàu khai thác xa bờ, từng bước giảm khai thác ven bờ nhằm bảo vệ và phục hồi nguồn lợi thủy sản. Các khu bảo tồn biển tiếp tục được mở rộng, hướng tới hình thành khu bảo tồn biển cấp quốc gia; đồng thời triển khai quyết liệt, hiệu quả các giải pháp nhằm gỡ “thẻ vàng” IUU của Ủy ban châu Âu.
Ngoài ra, tỉnh đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thủy sản công nghệ cao, nuôi biển quy mô lớn; đầu tư nâng cấp hạ tầng nghề cá như cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu thuyền; tăng cường quản lý hành lang bảo vệ bờ biển. Những giải pháp đồng bộ này góp phần sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên biển và hải đảo, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế biển bền vững trong thời gian tới.