Tăng cường quản lý chất thải nhựa - Những thách thức và giải pháp

Thứ bảy, 8/1/2022, 19:46 (GMT+7)
logo Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa ban hành Quyết định số 2436/QĐ-BTNMT phê duyệt Kế hoạch thực hiện Đề án tăng cường công tác quản lý chất thải nhựa ở Việt Nam. Đề án nhằm thực hiện Quyết định số 1316/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.

Tăng cường quản lý chất thải nhựa - Những thách thức và giải pháp

Ảnh minh họa.

Thách thức từ chất thải nhựa

Báo cáo của Hiệp hội Nhựa Việt Nam cho thấy, cả nước có khoảng 2.000 doanh nghiệp nhựa, chủ yếu ở miền Nam. Số lượng doanh nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận như Đồng Nai, Bình Dương và Long An chiếm 80% tổng số lượng doanh nghiệp nhựa trên cả nước, còn lại ở miền Bắc 15% và miền Trung chiếm 5%. Trong số này, hầu hết là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, 90% là doanh nghiệp tư nhân. Số lượng doanh nghiệp và chủng loại nhựa sản xuất ngày càng đa dạng, tốc tộ tăng trưởng ngành nhựa trung bình 15%/năm. Đến nay, sản lượng nhựa đạt khoảng 4 triệu tấn/năm, trong đó, sản phẩm nhựa bao bì (bao gồm các loại túi ni lông, chai lọ nhựa, bao bì hàng hóa…) chiếm khoảng 36%; nhựa vật liệu xây dựng, đồ gia dụng và các loại dành cho các ngành công nghiệp khác như điện tử, điện, giao thông vận tải lần lượt chiếm khoảng 16%, 36% và 12%.

Sản phẩm nhựa sử dụng một lần và túi ni lông khó phân hủy sử dụng và thải bỏ ngày càng gia tăng. Theo Báo cáo Chương trình giám sát và đánh giá rác thải nhựa ở bờ biển Việt Nam năm 2020 của Liên minh Quốc tế Bảo tồn thiên nhiên (IUCN) cho thấy, Việt Nam là một trong những quốc gia có lượng CTR xả ra biển nhiều nhất trên thế giới (trong số 20 quốc gia được nghiên cứu), mỗi năm, lượng CTR thải ra biển khoảng 0,28 - 0,73 triệu tấn, tương đương 6% tổng lượng rác thải nhựa đại dương. Chỉ tính riêng 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, mỗi ngày thải ra môi trường khoảng 80 tấn nhựa và túi ni lông khó phân hủy.

Điều đáng nói là, với lượng chất thải nhựa (CTN) thải ra môi trường lớn như vậy, nhưng việc phân loại, thu gom, tái chế và xử lý CTN còn hạn chế, chỉ có khoảng 11 - 12 % lượng CTN, túi ni lông được xử lý, tái chế theo đúng quy định, số còn lại chủ yếu là chôn lấp, đốt và thải ra môi trường. Trong khi, CTN phát sinh từ sinh hoạt, tiêu dùng của người dân thì hầu hết chưa được phân loại tại nguồn; việc phân loại, thu gom thường mang tính tự phát ở quy mô hộ gia đình. Nhựa phế liệu phát sinh từ các cơ sở sản xuất đa phần được thu gom rồi bán cho cơ sở tái chế. CTN và túi ni lông được thu gom từ hộ gia đình, chợ, khu vực công cộng được vận chuyển và xử lý cùng với chất thải rắn (CTR) sinh hoạt.

Việc xử lý CTR sinh hoạt, bao gồm CTN và túi ni lông khó phân hủy chủ yếu được thực hiện bằng biện pháp chôn lấp; hoạt động tái chế CTN diễn ra ở quy mô nhỏ lẻ, chủ yếu tại một số doanh nghiệp nhỏ, có vốn đầu tư hạn chế, công nghệ lạc hậu, lỗi thời… nên hiệu quả chưa cao. Nhựa phế liệu chủ yếu được tái chế thành hạt nhựa và các sản phẩm nhựa phục vụ sản xuất, tuy nhiên do phân loại CTR sinh hoạt tại nguồn chưa tốt, nên giá trị thu hồi thấp. Cùng với đó, nhận thức của người dân về tác hại của CTN, cũng như phân loại rác còn hạn chế, gây khó khăn cho công tác quản lý chất thải tại Việt Nam.

Tăng cường quản lý chất thải nhựa - Những thách thức và giải pháp

Tăng cường quản lý chất thải rắn ở Việt Nam

 Nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý CTN và túi ni lông khó phân hủy, thời gian qua, Chính phủ, Bộ TN&MT đã có nhiều nỗ lực trong việc giải quyết vấn đề ô nhiễm CTR thông qua việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật quan trọng trong lĩnh vực quản lý CTN như: Chỉ thị số 33/CT-TTg về tăng cường quản lý, tái sử dụng, tái chế, xử lý và giảm thiểu CTN; Quyết định số 1746/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý CTR đại dương đến năm 2030. Đặc biệt, Luật BVMT năm 2020 có Điều 73 về giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và xử lý CTN, phòng, chống ô nhiễm CTR đại dương. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 20/8/2020 về tăng cường quản lý tái sử dụng, tái chế, xử lý và giảm thiểu CTN; gần đây, ngày 22/7/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1316/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tăng cường công tác quản lý CTN ở Việt Nam. Đây là Đề án tổng thể trong lĩnh vực quản lý CTN, với mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, cũng như phân công rõ ràng trách nhiệm cho các Bộ, ngành và địa phương, đảm bảo việc triển khai thực hiện Đề án đạt hiệu quả, góp phần xây dựng mô hình nền kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam.

 Đề án đặt ra mục tiêu đến năm 2025, Việt Nam sẽ sử dụng 100% túi ni lông, bao bì thân thiện với môi trường tại các trung tâm thương mại, siêu thị phục vụ cho mục đích sinh hoạt thay thế cho túi ni lông khó phân hủy; đảm bảo thu gom, tái sử dụng, tái chế, xử lý 85% lượng CTN phát sinh; giảm thiểu 50% CTR trên biển và đại dương; phấn đấu 100% các khu du lịch, cơ sở lưu trú du lịch, khách sạn không sử dụng túi ni lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần; giảm dần hoạt động sản xuất và sử dụng túi ni lông khó phân hủy, sản phẩm nhựa dùng một lần trong sinh hoạt; nâng cao nhận thức cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng và người dân trong sản xuất, tiêu thụ, thải bỏ CTN, túi ni lông khó phân hủy, sản phẩm nhựa dùng một lần trong sinh hoạt.

Trên cơ sở Quyết định số 1316/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tăng cường công tác quản lý CTN ở Việt Nam của Thủ tướng, Bộ TN&MT đã ban hành Quyết định số 2436/QĐ-BTNMT phê duyệt Kế hoạch thực hiện Đề án tăng cường công tác quản lý CTN ở Việt Nam. Đề án đưa ra 3 nội dung lớn sẽ được ưu tiên thực hiện, đó là: Xây dựng văn bản pháp luật; đào tạo, truyền thông hợp tác quốc tế và nghiên cứu ứng dụng công nghệ tiên tiến.

Để thực hiện Đề án tăng cường công tác quản lý CTN ở Việt Nam, Bộ TN&MT sẽ huy động nhiều đơn vị để thực hiện. Trong đó, Tổng cục Môi trường được giao điều tra, khảo sát đánh giá hiện trạng sản xuất các sản phẩm nhựa; tình hình phát sinh, phân loại, thu gom, tái chế, xử lý CTN; xây dựng hệ thống thông tin quản lý CTN; đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách và các quy định về quản lý CTN. Đồng thời, triển khai hoạt động kiểm tra, thanh tra xử lý các vi phạm pháp luật về BVMT trong lĩnh vực quản lý chất thải nói chung và CTN nói riêng,… nghiên cứu, đề xuất lộ trình hạn chế sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần, và sản phẩm, trong Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT năm 2020.

Rà soát, đánh giá và đề xuất các giải pháp quản lý, điều chỉnh trong Danh mục phế liệu nhập khẩu (đối với phế liệu nhựa) cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước; rà soát, đề xuất sửa đổi QCVN 32:2018/BTNMT về Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với phế liệu nhựa nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất cho phù hợp với thực tế để nâng cao chất lượng phế liệu nhựa nhập khẩu. Đồng thời, rà soát, đề xuất hoàn thiện các quy định pháp luật về nhãn sinh thái đối với túi ni lông thân thiện môi trường và các sản phẩm thân thiện với môi trường được quy định tại Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT năm 2020.

Bên cạnh đó, tăng cường đánh giá tổng thể thực trạng sản xuất, sử dụng các sản phẩm nhựa, sản phẩm thân thiện với môi trường, sản phẩm nhựa dùng một lần và túi ni lông khó phân hủy; tình hình sản xuất và nhập khẩu sản phẩm hàng hóa chứa vi nhựa, ảnh hưởng của vi nhựa đến môi trường; phát sinh, thu gom, tái chế, xử lý CTN và đề xuất các giải pháp, chính sách, quy định nhằm nâng cao hiệu quả quản lý.

Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ, triển khai mô hình, hoạt động quản lý CTN và sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường: Xây dựng kế hoạch và triển khai đồng bộ trên cả nước mô hình trung tâm thương mại, siêu thị không sử dụng túi ni lông, hoặc sử dụng túi ni lông thân thiện với môi trường thay thế cho túi ni lông khó phân hủy; thành lập và mở rộng các mô hình tổ chức tái chế chất thải, phong trào chống CTR. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định về thu gom và xử lý CTN phát sinh từ hoạt động du lịch biển, vận tải biển, nuôi trồng và khai thác thủy sản; giảm thiểu việc thải bỏ, làm thất lạc ngư cụ khai thác thủy sản. Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại trong thu gom, tái chế và xử lý CTR. Đầu tư và phát triển công nghệ sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường thay thế sản phẩm nhựa; nghiên cứu, thiết kế, sản xuất bao bì, sản phẩm nhựa tối ưu nhằm giảm tối đa định mức nguyên liệu nhựa/sản phẩm,…

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường Nguyễn Thượng Hiền cho biết, trong thời gian tới, chúng ta cần ưu tiên một số nhiệm vụ và giải pháp trước mắt, đó là: Điều tra, khảo sát đánh giá hiện trạng phát sinh, thu gom, xử lý CTN và hoàn thiện chính sách, quy định về quản lý CTN; triển khai các hoạt động đào tạo, truyền thông và hợp tác quốc tế về quản lý CTN; nghiên cứu, ứng dụng công nghệ, triển khai mô hình, hoạt động quản lý CTN và sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường.

NGUYỄN HỒNG TRƯỜNG

Tổng cục Môi trường