news

Tăng cường ứng dụng công nghệ sau thu hoạch chế biến nông sản giá trị cao

Thứ năm, 20/11/2025, 21:54 (GMT+7)
logo PGS,TS. Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch đề xuất, cần liên kết vùng sản xuất - chế biến - tiêu thụ theo chuỗi giá trị, hạn chế trùng lặp sản phẩm giữa các tỉnh gây cạnh tranh nội vùng.

Phát biểu tại Hội thảo “Liên kết vùng - Thúc đẩy chuỗi giá trị xanh trong nông nghiệp Việt Nam”, PGS,TS. Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch thông tin, theo FAO, khoảng 1/3 lượng lương thực toàn cầu, tương đương 1,3 tỷ tấn mỗi năm bị thất thoát và lãng phí, gây thiệt hại kinh tế ước 990 tỷ USD. Tại Việt Nam, nhiều nhóm nông sản vẫn chịu thất thoát lớn trong các khâu xử lý, lưu trữ, vận chuyển và tiêu dùng.

pgs.ts-pham-anh-tuan_1763521615.webp
PGS,TS. Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch

PGS, TS. Phạm Anh Tuấn nhấn mạnh, công nghệ sau thu hoạch có vai trò then chốt trong giảm tổn thất (FLW) qua hệ thống bảo quản hiện đại; gia tăng giá trị theo chuỗi ngành hàng thông qua chế biến sâu, chế biến tinh; hỗ trợ chuyển đổi hệ thống lương thực - thực phẩm theo hướng minh bạch, trách nhiệm và bền vững.

Ông Phạm Anh Tuấn thông tin thêm, đối với rau quả tươi, hàng loạt công nghệ mới đã được nghiên cứu và ứng dụng như xử lý ethylene, chiếu xạ thực phẩm, xử lý hơi nước nóng, khí ozone, plasma lạnh, bao gói khí quyển cải biến MAP, màng bảo quản nano bạc - chitosan. Ở nhóm nông sản khô, các công nghệ tiệt trùng hồng ngoại, vi sóng, xông hơi, bao gói MA giúp kéo dài thời gian bảo quản và giữ chất lượng sản phẩm. Đối với sản phẩm đông lạnh, các công nghệ đông siêu tốc bằng chất lỏng, nitơ lỏng hay hỗ trợ từ trường (CAS) đem lại chất lượng cao hơn so với cấp đông truyền thống. 

Năm nhóm giải pháp đột phá thúc đẩy ứng dụng công nghệ sau thu hoạch

PGS,TS. Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch cho rằng, việc giảm thất thoát sau thu hoạch và nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản chỉ có thể đạt hiệu quả khi đi kèm những giải pháp tổng thể, đồng bộ từ quy hoạch, tổ chức sản xuất cho đến công nghệ và thị trường. Trên cơ sở phân tích thực trạng và tiềm năng của ngành, ông đề xuất 5 nhóm giải pháp trọng tâm nhằm thúc đẩy ứng dụng công nghệ sau thu hoạch và phát triển chuỗi giá trị nông sản theo hướng hiện đại, bền vững.

Thứ nhất, quy hoạch lại vùng sản xuất theo lợi thế vùng, gắn phát triển nguyên liệu với đặc sản địa phương trên cơ sở xác định rõ tiêu chuẩn chất lượng, sản lượng và mùa vụ. Việc liên kết vùng giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ phải được thực hiện theo chuỗi giá trị nhằm hạn chế tình trạng trùng lặp sản phẩm giữa các tỉnh, tránh cạnh tranh nội vùng làm giảm giá trị. Ông cũng đề xuất đầu tư đồng bộ hạ tầng gắn với hệ thống logistics xanh và các trung tâm đóng gói hiện đại để nâng cao năng lực bảo quản, chế biến.

Nhóm giải pháp thứ hai, theo Viện trưởng Phạm Anh Tuấn, là tổ chức lại sản xuất theo hướng phát huy vai trò hợp tác xã kiểu mới và doanh nghiệp đầu tàu. Các hợp tác xã cần trở thành cầu nối giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua việc cung cấp dịch vụ đầu vào, kiểm soát chất lượng và thu gom sản phẩm. Trong khi đó, doanh nghiệp giữ vai trò dẫn dắt chuỗi giá trị, đặc biệt trong chế biến và xuất khẩu, thông qua mô hình liên kết bao tiêu, chuyển giao kỹ thuật và ứng dụng các loại hợp đồng thông minh để đảm bảo minh bạch, ổn định đầu ra.

sth-1_1763544506.webp
Áp dụng công nghệ sau thu hoạch đóng vai trò quan trọng

Thứ ba, PGS, TS. Phạm Anh Tuấn đề xuất đẩy mạnh tiêu chuẩn xanh và công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. Điều này bao gồm chuyển mạnh sang các mô hình VietGAP, GlobalGAP và sản xuất hữu cơ; tăng cường cơ giới hóa - số hóa thông qua hệ thống tưới tự động, cảm biến môi trường, nhật ký điện tử và truy xuất nguồn gốc bằng mã QR hoặc Blockchain. Đồng thời, việc giảm phát thải được đặt lên hàng đầu thông qua sử dụng phân bón sinh học, chế phẩm vi sinh và mô hình nông nghiệp tuần hoàn. Ông cũng nhấn mạnh nhu cầu xây dựng phòng kiểm nghiệm đạt chuẩn quốc tế và trung tâm chứng nhận xuất khẩu ngay tại vùng sản xuất.

Bên cạnh đó, xây dựng thương hiệu vùng gắn với mở rộng thị trường đóng vai trò quan trọng. Theo ông, cần chuẩn hóa chất lượng theo từng vùng chỉ dẫn địa lý, đồng thời xây dựng bộ nhận diện thương hiệu vùng để tạo sự khác biệt. Việc phát triển các sản phẩm tinh chế và chế biến sâu như sấy lạnh, đông khô, tinh dầu, sản phẩm giá trị cao,… là hướng đi quan trọng để nâng cao giá trị nông sản. Ông cũng đề nghị tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các hội chợ quốc tế và sàn thương mại điện tử xuyên biên giới; cập nhật kịp thời yêu cầu của các thị trường lớn về kiểm dịch, mã số vùng trồng, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và bao bì xanh.

Cuối cùng, PGS.TS. Phạm Anh Tuấn cho rằng cần tăng cường vai trò Nhà nước trong điều phối và dự báo thị trường. Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng các địa phương cần có cơ chế điều phối vùng sản xuất - tiêu thụ thông qua quy hoạch mùa vụ, cảnh báo cung cầu và điều tiết xuất khẩu. Song song đó là xây dựng hệ thống dữ liệu nông nghiệp quốc gia kết nối xuyên suốt từ nông dân, hợp tác xã đến doanh nghiệp và thị trường. Ông đề nghị hoàn thiện chính sách tín dụng xanh, hỗ trợ đổi mới công nghệ và triển khai hiệu quả bảo hiểm nông nghiệp để giảm rủi ro cho người sản xuất.

Nhóm giải pháp được PGS,TS. Phạm Anh Tuấn đề xuất cho thấy yêu cầu cấp thiết phải quy hoạch lại sản xuất, tổ chức chuỗi liên kết hiệu quả, đẩy mạnh tiêu chuẩn xanh - công nghệ cao, xây dựng thương hiệu vùng và tăng cường vai trò điều phối của Nhà nước. Đây là những định hướng then chốt giúp giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao giá trị nông sản và tạo nền tảng cho một nền nông nghiệp phát triển bền vững hơn trong thời gian tới.

Khánh Linh
Tags
Công nghệ sau thu hoạch