Thách thức trong việc quản lý hệ thống tài nguyên nước đô thị ở Việt Nam

Thứ năm, 25/4/2024, 14:37 (GMT+7)
logo Trong những năm qua, quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam đã mang lại nhiều thành tựu phát triển kinh tế - xã hội to lớn, tuy nhiên, lại làm gia tăng sức ép lên việc quản lý tài nguyên thiên nhiên như tài nguyên rừng, đất, biển, nguồn nước, cũng như nảy sinh rất nhiều vấn đề liên quan đến ô nhiễm nước và sức khỏe cộng đồng.

Thách thức trong việc quản lý hệ thống tài nguyên nước đô thị ở Việt Nam

Hệ thống nước mất cân bằng do gia tăng nhu cầu sử dụng nước

Tăng trưởng kinh tế, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa và áp lực gia tăng dân số làm gia tăng mạnh nhu cầu sử dụng nước ở Việt Nam. Trong vòng 25 năm tới, nhu cầu sử dụng nước hàng ngày của dân cư ở các khu đô thị dự kiến sẽ tăng gấp đôi so với khả năng đáp ứng của hệ thống hiện tại. Sự gia tăng nhanh chóng của nhu cầu nước được dự báo sẽ gây áp lực cho nguồn nước của 11 trong số 16 lưu vực sông tại Việt Nam vào năm 2030 (2030WRG). Bốn lưu vực sông của Việt Nam: Hồng - Thái Bình, sông Cửu Long, Đồng Nai và Đông Nam Bộ vốn đóng góp 80% GDP đến năm 2030 đều phải đối mặt với căng thăng về TNN vào mùa khô. Lưu vực sông Đông Nam Bộ dự kiến sẽ đối mặt với căng thẳng TNN nghiêm trọng, dự báo không đạt được mức 28% nhu cầu dùng nước mùa khô vào năm 2030. Khai thác quá mức và thiếu quan trắc đầy đủ TNN dưới đất làm suy giảm mực nước dưới đất, là một trong những nguyên nhân dẫn đến sụt lún đất ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng cũng như thiếu nước cục bộ vào mùa khô, ví dụ như vùng ĐBSCL (nơi sản xuất 50% lúa gạo cho Việt Nam) và ở vùng Tây Nguyên (nơi có 88% diện tích cà phê so với toàn quốc). Xâm nhập mặn vào các tầng nước dưới đất làm giảm sản lượng nông nghiệp dọc các sông ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng.

Dữ liệu về quản lý TNN là nền tảng cơ bản của công tác quản lý TNN, song thông tin còn hạn chế và phân tán. Mặc dù cơ sở dữ liệu về quy hoạch TNN đã bước đầu được thành lập nhưng do thiếu kinh phí, các dữ liệu này không được cập nhật, thiếu thông tin, chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ quan quản lý và xã hội. Ngoài ra, chia sẻ thông tin cũng là một vấn đề cần giải quyết. Còn thiếu hệ cơ sở dữ liệu thống nhất về TNN từ trung ương đến địa phương. Dữ liệu phân tán ở các bộ ngành, địa phương, gây khó khăn cho công tác quản lý. Ngoại trừ hệ dữ liệu được chia sẻ giữa Bộ TN&MT và các cơ sở vận hành liên hồ chứa, rất ít thông tin được chia sẻ về khai thác, sử dụng, cấp phép, quy hoạch cũng như các dự án trên các sông và các hành lang sông.

Hệ thống sông hồ ô nhiễm bởi nước thải sinh hoạt, công nghiệp và nông nghiệp

Quá trình đô thị nhanh chóng là nguyên nhân gây gia tăng tình trạng ô nhiễm nguồn nước. Nước thải công nghiệp và đô thị là nguồn gây ô nhiễm nguồn nước lớn nhất; nước thải đô thị dự kiến sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất (khoảng 60%), nước thải công nghiệp sẽ chiếm 25-28% và nước thải nông thôn là 12-15% của tổng lượng nước thải phát sinh vào năm 2035. Các hệ thống xử lý nước thải tập trung chỉ xử lý được khoảng 71% lượng nước thải công nghiệp và chỉ khoảng 12,5% nước thải đô thị được xử lý trước khi xả vào các nguồn. Ngành nông nghiệp cũng đóng góp một lượng lớn chất thải từ phân bón, mầm bệnh và dược phẩm dùng trong chăn nuôi; 80% của tổng số 84,5 triệu tấn chất thải chăn nuôi tạo ra mỗi năm được thải vào môi trường không qua xử lý. Do đó, tải lượng chất ô nhiễm thực tế xả ra nguồn tiếp nhận nước mặt là rất lớn.

Các sông chính ở các đô thị tiếp nhận một lượng lớn nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý và bị ô nhiễm nặng. Theo các số liệu của Sở TN&MT các TP. Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh thì hầu hết các mẫu nước sông đều bị ô nhiễm bởi các chất hữu cơ (BOD5 và COD) từ nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý và chất thải từ doanh nghiệp chế biến hải sản và giao thông đường thủy. Tình trạng hệ thống nước mặt bị ô nhiễm gây lãng phí nguồn tài nguyên, rủi ro cho sức khỏe con người và các hệ sinh thái tự nhiên. Mức độ ô nhiễm cao cũng hạn chế sự phát triển đô thị, sự phát triển bền vững và tương lai của ngành công nghiệp, nông nghiệp. Việt Nam sẽ tiêu tốn khoảng 12,4 - 18,6 triệu USD mỗi ngày cho chi phí xử lý do ô nhiễm vào năm 2030 nếu không có các biện pháp xử lý kịp thời.

An ninh nguồn nước bị đe dọa

Nguồn nước Việt Nam phụ thuộc nhiều vào lượng nước sản sinh từ bên ngoài lãnh thổ là thách thức lớn đối với an ninh nguồn nước quốc gia với 71,7% diện tích lưu vực các sông ở bên ngoài lãnh thổ; 7/13 sông lớn, quan trọng là sông liên quốc gia; 63% nguồn nước mặt xuất phát từ ngoài lãnh thổ,... Hoạt động phát triển tại thượng nguồn các lưu vực sông quốc tế sẽ có tác động bất lợi đến các vùng hạ du lưu vực sông ở nước ta, đặc biệt, tác động bất lợi đến vùng ĐBSCL là vô cùng lớn và không thể đảo ngược.

Tài nguyên nước phân bố không đều theo không gian và thời gian: Phần lãnh thổ từ các tỉnh biên giới phía Bắc đến TP. Hồ Chí Minh, nơi có 80% dân số, trên 90% hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ nhưng chỉ có gần 40% lượng nước của cả nước; 60% lượng nước còn lại là ở vùng ĐBSCL, nơi chỉ có 20% dân số và khoảng 10% hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ nhưng cũng đang chịu tác động từ sử dụng nước khu vực thượng nguồn.

Nguồn nước ô nhiễm khiến nguồn nước cấp ngày càng suy giảm về chất và lượng, tình trạng ô nhiễm nguồn nước ngày càng tăng cả về mức độ, quy mô trong khi đó nhu cầu nước ngày càng gia tăng đang là những thách thức rất lớn đến việc bảo đảm cấp nước an toàn, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Ngoài ra, các sự cồ nước quy mô lớn do con người (Ví dụ về nhiễm dầu thải ở nguồn cấp nước cho nhà máy nước Sông Đà - Vinaconnex ảnh hưởng tới việc cấp nước cho hàng trăm nghìn người dân TP. Hà Nội) cho thấy, còn quá nhiều lỗ hổng trong quản lý về an ninh nguồn nước, nhất là nguồn nước mặt được sử dụng sản xuất nước sạch.

Rủi ro cao và gia tăng do biến đổi khí hậu và thiên tai

Việt Nam là một trong những quốc gia hứng chịu thiên tai lớn nhất ở Đông Á và Thái Bình Dương. Biến đổi khí hậu sẽ làm tăng tính địa phương hóa của nguồn nước và làm mất ổn định nguồn TNN. Hơn 70% dân số chịu những thiên tai liên quan đến nước. Các mô hình dự báo cho thấy, BĐKH sẽ làm tăng quy mô và tần suất lũ lụt, bão tố, mực nước biển dâng và sóng lớn trong bão. Theo dự báo, từ những năm 2040 trở đi, lượng mưa toàn quốc vào mùa khô sẽ giảm trong khi lượng mưa trong mùa mưa sẽ đạt mức cực đại. Các ngành dễ bị tổn thương nhất do những ảnh hưởng trên là ngành nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, mặc dù thiệt hại kinh tế do lũ lụt gây ra ở các thành phố có thể cao hơn.

Thiệt hại kinh tế do thiên tai liên quan đến nước gây ra ước tính trung bình khoảng 1-1,5% GDP trong hai thập kỷ qua và dự đoán sẽ tăng lên 3% vào năm 2050 và đến 7% vào năm 2100. Những bằng chứng đã cho thấy, nguyên nhân là do sự bất cập về thiết kế cơ sở hạ tầng và khả năng chống chịu rủi ro thiên tai (bão lũ và hạn hán) thấp, số liệu quan trắc cho thấy, dòng chảy tối thiểu của nhiều sông (theo quy định của Bộ TN&MT là dòng chảy tối thiểu trên sông, suối và hạ lưu hồ chứa được xác định phải nằm trong phạm vi từ lưu lượng tháng nhỏ nhất đến lưu lượng trung bình của 3 thảng nhỏ nhất theo m3/s) - đã hạ xuống thấp hơn mức cần thiết để duy trì hệ sinh thái và đa dạng sinh học của dòng sông, cũng như đảm bảo cung cấp nước cho cho vùng hạ du. Thêm vào đó, biến đổi khí hậu cũng đã và đang gây ra các tác động như làm mất tính ổn định các dòng chảy của sông và làm thay đối hệ sinh thái môi trường nước. Hạn hán, xâm nhập mặn cũng cũng ảnh hưởng lớn đến việc cấp nước sinh hoạt cho một số khu vực sử dụng nước mặt nhất là các vùng chưa có các công trình cấp nước tập trung.

PGS. TS. TRẦN THỊ VIỆT NGA
Trưởng Khoa Kỹ thuật Môi trường, Đại học Xây dựng Hà Nội
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường