
TS. Nguyễn Linh Ngọc phát biểu khai mạc diễn đàn
TS. Nguyễn Linh Ngọc, Nguyên Thứ trưởng Bộ TN&MT; Chủ tịch Hội nước sạch và Môi trường Việt Nam chủ trì diễn đàn. Đến dự diễn đàn có TS. Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy Ban KHCNMT của Quốc hội; TS. Hà Quang Anh- Giám đốc Trung tâm Phát triển các-bon thấp, Cục Biến đổi Khí hậu - Bộ TN&MT; TS. Vũ Tấn Phương- Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ quản lý rừng bền vững, Viện Lâm nghiệp Việt Nam,…cùng các cộng đồng doanh nghiệp trong nước và nước ngoài như: Tập đoàn Nagase Nhật Bản, Unilever Việt Nam,…
Diễn đàn đã đi vào thảo luận chuyên sâu hơn về phương pháp và cách thức thực hiện kiểm kê khí nhà kính; phân tích những hiệu quả ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn tại cơ sở nhằm giảm nhẹ phát thải; đồng thời mở ra một tiềm năng phát triển mới đó là thị trường cácbon và cácbon tại rừng.
TS Nguyễn Linh Ngọc, Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam cho biết: Biến đổi khí hậu đã và đang là một trong những vấn đề nghiêm trọng, không chỉ Việt Nam mà toàn thế giới đang phải gánh chịu. Có thể nhận thấy những tác động mà biến đổi khí hậu đem lại đang khá tiêu cực, ảnh hưởng đến thiên nhiên, thời tiết, đời sống kinh tế và xã hội. Đây là một trong những thách thức lớn nhất đối với toàn nhân loại trong thế kỷ 21. Nguyên nhân chính là do lượng phát thải khí nhà kính tăng lên trong những năm qua. Để giảm những hậu quả do biến đổi khí hậu gây ra, thế giới đang đẩy mạnh các hoạt động giảm phát thải khí nhà kính ở cấp độ toàn cầu.
Đây cũng là cơ hội để các quốc gia thúc đẩy một cuộc cách mạng trong sản xuất, tiêu dùng và giao thông vận tải… để loại bỏ lượng lớn carbon thải ra, hoặc sử dụng công nghệ thu giữ và lưu trữ, loại bỏ carbon tại nguồn phát thải. “Với mục tiêu cao nhất của Chính phủ thì đây vừa là thách thức nhưng cũng là cơ hội mới để các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện đồng bộ cơ chế, giải pháp, ứng dụng, chuyển giao công nghệ xanh nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu”, TS Nguyễn Linh Ngọc nói.
Nhận diện và nỗ lực giải quyết thách thức
Biến đổi khí hậu đang là một trong những thách thức của toàn cầu, tác động đến mọi mặt kinh tế, chính trị, ngoại giao và an ninh toàn cầu. Theo Báo cáo đánh giá khí hậu lần thứ 6, nhóm công tác II (AR6 WGII) về “Tác động, khả năng thích ứng và tính dễ bị tổn thương” được Ban liên Chính phủ về BĐKH công bố tháng 2/2022 đã chỉ ra những vấn đề đáng lo ngại về BĐKH, thời tiết cực đoan diễn ra ở mọi nơi trên Trái đất, bầu khí quyển và biển đang nóng lên với tốc độ chưa từng có trong lịch sử. BĐKH diễn ra bất thường và nghiêm trọng hơn dự báo; hạn hán, nắng nóng khắc nghiệt và lũ lụt kỷ lục đe dọa an ninh lương thực và sinh kế của hàng triệu người.
TS. Tạ Đình Thi chia sẻ tại diễn đàn
Tại diễn đàn, TS. Tạ Đình Thi cho biết: Việt Nam luôn coi ứng phó với BĐKH là vấn đề có ý nghĩa sống còn và là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, cộng đồng, doanh nghiệp và từng người dân trong việc thực hiện đồng thời các hoạt động thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ phát thải KNK, sử dụng hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các nội dung về ứng phó với BĐKH đã được đưa vào các văn kiện quan trọng của Đảng. Đặc biệt là Nghị quyết số 24-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT và Kết luận số 56-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT. Để thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật, nghị quyết liên quan trực tiếp tới ứng phó BĐKH, trong đó Luật BVMT năm 2020 đã dành Chương VII quy định về ứng phó với BĐKH. Chính phủ đã ban hành khung hành lang pháp lý nhằm thực hiện đồng bộ các giải pháp và đưa ra những chiến lược, mục tiêu cụ thể.
Toàn cảnh diễn đàn
Để nỗ lực giải quyết những vấn đề này, với sự thành công tại Hội nghị COP26 vào tháng 11/2021 tại Glasgow, Vương quốc Anh, nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam đã có những cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Điều này đã thể hiện Việt Nam sẽ quyết tâm, nỗ lực trong ứng phó với biến đổi khí hậu thông qua những việc xây dựng các bộ khung pháp lý, chính sách nhằm thúc đẩy việc chuyển đổi năng lượng, thu hút các dòng tài chính, tín dụng xanh để chuyển đổi đầu tư từ điện than sang năng lượng tái tạo, phát triển nền kinh tế tuần hoàn và thực hiện các giải pháp giảm nhẹ phát thải.
Phát thải ròng bằng 0 là mục tiêu không thể trì hoãn. Các nhà khoa học đã chứng minh, chúng ta cần phải đưa thế giới về trạng thái này càng sớm càng tốt, chậm nhất là năm 2050 để hạn chế những tác động tiêu cực nhất của biến đổi khí hậu. Để giải quyết những thách thức này, Chính phủ Việt Nam đã ban hành khung hành lang pháp lý nhằm thực hiện đồng bộ các giải pháp và đưa ra những chiến lược, mục tiêu trong tương lai, cụ thể: như ban hành Nghị định 06/2022/NĐ-CP về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ôdôn; quyết định số 01/QĐ-TTG về các danh mục, lĩnh vực, các cơ sở phát thải phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính; quyết định số 896 về phê duyệt Chiến lược Quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050…
Đây chính là những cơ sở cơ bản nhất để các bộ, ban, ngành, các tổ chức, doanh nghiệp và toàn xã hội chung thực hiện và hành động để đạt mục tiêu Netzero.
Kiểm kê khí nhà kính – Trách nhiệm của doanh nghiệp
Với bộ khung pháp lý đó là Luật Bảo vệ môi trường năm 2020; Nghị định Nghị định 06/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn; Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục, lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính và các quy định liên quan thì các doanh nghiệp phải có trách nhiệm thực hiện hoạt động này, cụ thể:
Cung cấp số liệu hoạt động, thông tin liên quan phục vụ kiểm kê khí nhà kính của cơ sở của năm trước kỳ báo cáo theo hướng dẫn của bộ quản lý lĩnh vực trước ngày 31 tháng 3 kể từ năm 2023.
Tổ chức thực hiện kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở, xây dựng báo cáo kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở định kỳ hai năm một lần cho năm 2024 trở đi theo Mẫu số 06 Phụ lục II, Nghị định 06/NĐ-CP gửi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trước ngày 31 tháng 3 kể từ năm 2025 để thẩm định.
Hoàn thiện báo cáo kết quả kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở, gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường trướcngày 01 tháng 12 của kỳ báo cáo bắt đầu từ năm 2025.
Cần xây dựng kế hoạch giảm nhẹ phát thải KNK cho các doanh nghiệp theo giai đoạn 2026 – 2030 như: Các biện pháp giảm phát thải KNK; Kế hoạch thực hiện; phương pháp đo đạc lượng giảm phát thải KNK, hoạt động giám sát, đánh giá cơ sở xây dựng và gửi kế hoạch giảm phát thải KNK tới Bộ TNMT, Bộ quản lý, UBND trước ngày 31/12/2025.
Các doanh nghiệp chia sẻ kinh nghiệm, trách nhiệm tại tọa đàm
Quá trình thực hiện kiểm kê khí nhà kính tại cơ sở phải được thực hiện bởi đơn vị, cơ quan, tổ chức có năng lực thực hiện theo các yêu cầu tại Nghị định 06/2022/NĐ-CP, đồng thời các hoạt động để đo đạc, báo cáo và thẩm định (MRV) kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính cũng phải được thực hiện theo quy định của cơ quan có thẩm quyền ban hành. Các phương pháp này phải đảm bảo tính chính xác, minh bạch và liên tục trên cơ sở quy định của UNFCCC, phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Theo chuyên gia TS. Hà Quang Anh, Giám đốc Trung tâm Phát triển các-bon thấp, Cục Biến đổi khí hậu, quy trình kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở được thực hiện theo các bước: Xác định ranh giới hoạt động và lựa chọn phương pháp kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở; Lựa chọn hệ số phát thải kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở; Lựa chọn và thu thập số liệu hoạt động kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở; Tính toán phát thải, hấp thụ khí nhà kính cấp cơ sở; Kiểm soát chất lượng kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở; Đánh giá độ không chắc chắn của kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở; Tính toán lại kết quả kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở; Xây dựng báo cáo kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở.
Như vậy việc kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở cơ bản được thực hiện theo các bước như trên. Để hỗ trợ cho công tác quản lý cấp cơ sở, đồng thời thiết lập một chu trình tự động, tính toán chi tiết lượng phát thải CO2 của cả một hệ thống bao gồm sản xuất, vận hành, kinh doanh, phân phối của doanh nghiệp (từ khi nhập khẩu nguyên nhiên liệu, vận hành quản lý, sản xuất, tới khi bán sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng), Tập đoàn Nagase Nhật Bản đã cùng với các đối tác nghiên cứu và ra mắt công cụ Zeroboard trong các tổ chức, doanh nghiệp. Ứng dụng đã được triển khai tại nhiều tập đoàn, công ty tại Nhật Bản, phát triển tại thị trường Singapore, Thái Lan và dự kiến triển khai sắp tới tại Việt Nam. Bằng cách tính toán và trực quan hóa lượng phát thải khí nhà kính phát sinh từ các hoạt động của cơ sở và chuỗi cung ứng trên dịch vụ tiện ích đám mây, qua đó đề xuất và cung cấp các giải pháp giảm thiểu khí nhà kính phù hợp với đơn vị. Đây cũng là cơ hội rất lớn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực môi trường, kiểm kê khí nhà kính, giao dịch tín chỉ carbon… Ngoài ra, công cụ này hứa hẹn sẽ góp phần nâng cao năng lực quản lý, tính chính xác, minh bạch và dễ dàng cập nhật theo các tiêu chí, quy định quốc tế về kiểm soát khí nhà kính.
Đặc biệt, trong số các giải pháp để thực hiện mục tiêu trọng tâm là Netzero thì theo nhiều chuyên gia việc thúc đẩy các hành động theo mô hình kinh tế tuần hoàn sẽ góp phần thực hiện tốt cam kết này và sẽ mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia và doanh nghiệp. Kinh tế tuần hoàn giúp tận dụng được nguồn nguyên vật liệu đã qua sử dụng thay vì tiêu tốn chi phí xử lý; giảm thiểu khai thác, tận dụng tối đa tài nguyên thiên nhiên; hạn chế tối đa chất thải, khí thải ra môi trường. Với doanh nghiệp, việc chuyển đổi mô hình công nghệ, sáng tạo và đổi mới các sản phẩm để giải quyết các vấn đề về môi trường tại Việt Nam đó là một trong những thách thức lơn với nhiều đơn vị. Là một trong những thành viên sáng lập nhóm Hợp tác Công – Tư tại Việt Nam, Unilever Việt Nam luôn chủ động thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn, định hình chuỗi giá trị sản xuất thông qua đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống phân loại rác tại nguồn và thu gom, xử lý rác thải nhựa nhiều hơn lượng bao bì bán ra ngoài thị trường. Đơn vị này cũng có những nỗ lực không ngừng nghỉ để giảm một nửa lượng nhựa nguyên sinh và tăng cường nhựa tái chế trong bao bì sản phẩm; cũng như đảm bảo tất cả bao bì đều có khả năng tái chế. Sau thời gian triển khai thực hiện, nhóm Hợp tác Công – Tư đã thu gom, xử lý tái chế hơn 17.000 tấn rác thải nhựa, đạt 77% bao bì có khả năng tái chế, cũng như giảm 55% nhựa nguyên sinh trong sản xuất bao bì nhờ vào cắt giảm trực tiếp và sử dụng nhựa tái sinh. Những nỗ lực của Unilever nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung đang từng bước góp phần thúc đẩy một nền kinh tế tuần hoàn, kinh tế tăng tưởng xanh, giảm chất thải, tăng cường khả năng tái chế và hơn hết đó là những điểm sáng cần ghi nhận trong nỗ lực thực hiện mục tiêu Netzero vào năm 2050 tại Việt Nam.
Hồng Minh