
Tỉnh Thanh Hóa xác định việc sản xuất lúa giảm phát thải khí nhà kính, tạo tín chỉ carbon không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là cơ hội nâng cao giá trị hạt gạo, tăng thu nhập cho nông dân, đồng thời góp phần thực hiện cam kết phát thải ròng bằng 0 của Việt Nam tại COP26.
Để làm rõ hơn chiến lược này, PV Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Đức Cường, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Thanh Hóa về định hướng sản xuất lúa giảm phát thải khí nhà kính, kết quả và giải pháp để nhân rộng mô hình canh tác lúa giảm phát thải trên địa bàn tỉnh.
PV: Thưa ông, đâu là lý do và động lực để Thanh Hóa lựa chọn sản xuất lúa giảm phát thải khí nhà kính, tạo tín chỉ carbon, trong bối cảnh tỉnh ta vốn có diện tích canh tác lúa rất lớn?
Ông Nguyễn Đức Cường: Thanh Hóa hiện là một trong những tỉnh có diện tích canh tác lúa lớn trên địa bàn cả nước: diện tích gieo trồng lúa khoảng 230.000 ha/năm (2 vụ). Trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường, tác động tiêu cực đến mọi mặt phát triển đời sống kinh tế - xã hội, ngành Nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa luôn xác định vừa phải đảm bảo an ninh lương thực, vừa phải đổi mới phương thức sản xuất để thích ứng với biến đổi khí hậu. Lúa là cây trồng quan trọng nhưng cũng là nguồn phát thải khí nhà kính đáng kể, chủ yếu do khí mê-tan từ ruộng ngập nước. Chính vì vậy, việc lựa chọn hướng đi sản xuất lúa giảm phát thải và tạo tín chỉ carbon là định hướng chiến lược của tỉnh.
Chiến lược sản xuất lúa giảm phát thải khí nhà kính, tạo tín chỉ carbon, xuất phát từ 3 lý do. Thứ nhất, với quy mô diện tích gieo trồng lúa lớn, hạ tầng phục vụ sản xuất như đường giao thông, kênh mương nội đồng, hệ thống thủy lợi… cơ bản đảm bảo, tỉnhThanh Hóa có điều kiện thuận lợi để triển khai đồng bộ các biện pháp kỹ thuật tiên tiến như tưới ngập khô xen kẽ (AWD); hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI), sử dụng giống lúa ngắn ngày, quản lý phân bón thông minh… Những giải pháp này vừa giúp giảm phát thải khí nhà kính, vừa đảm bảo năng suất, chất lượng lúa gạo.
Thứ hai, đây là hướng đi mang lại lợi ích kép cho nông dân. Khi áp dụng canh tác lúa giảm phát thải, bà con tiết kiệm được nước, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, nhờ đó giảm chi phí sản xuất. Đồng thời, việc tạo ra tín chỉ carbon mở ra cơ hội tham gia thị trường carbon trong tương lai, giúp nông dân có thêm nguồn thu nhập ngoài hạt lúa. Diện tích gieo trồng lúa hàng năm của tỉnh rất lớn, đây là dư địa quan trọng để triển khai sản xuất lúa giảm phát thải, chứng nhận và thương mại hóa tín chỉ carbon, từ đó tăng thu nhập cho nông dân - nguồn thu mới cho người dân địa phương.
Thứ ba, đây là bước đi cụ thể để Thanh Hóa thực hiện cam kết phát thải ròng bằng 0 mà Chính phủ Việt Nam đã tuyên bố cam kết tại Hội nghị COP26. Ngành nông nghiệp Thanh Hóa mong muốn địa phương không chỉ là vựa lúa lớn mà còn trở thành trung tâm tiên phong về nông nghiệp xanh, nông nghiệp bền vững của cả nước.
Nói cách khác, giảm phát thải trong sản xuất lúa không chỉ là yêu cầu của thời đại, mà còn là cơ hội để Thanh Hóa nâng cao giá trị hạt gạo, bảo vệ môi trường, đồng thời tạo thêm thu nhập cho người nông dân. Góp phần phát triển nông nghiệp của tỉnh theo hướng “xanh, sạch, tuần hoàn, đa giá trị”; vừa nâng cao hiệu quả, chất lượng vừa bảo vệ môi trường là mục tiêu, định hướng trong giai đoạn tới.
PV: Ông có thể chia sẻ cụ thể về hiệu quả kinh tế – môi trường, cũng như phản ứng của bà con nông dân khi áp dụng phương pháp canh tác mới này?
Ông Nguyễn Đức Cường: Triển khai thực hiện các mô hình sản xuất nông nghiệp giảm phát thải trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong thời gian qua đã đạt được những kết quả bước đầu.
Cụ thể, năm 2023, Thanh Hóa là 1 trong 6 tỉnh Bắc Trung Bộ trong chuyển nhượng thành công tín chỉ Carbon rừng thông qua Ngân hàng thế giới để thu về 162,5 tỷ đồng. Năm 2023, toàn bộ 393.000 ha rừng tự nhiên tại Thanh Hóa đều tham gia thành công vào việc bán tín chỉ Carbon rừng.
Năm 2024, Sở Nông nghiệp và PTNT Thanh Hoá (nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp với Viện khoa học Kỹ thuật nông nghiệp Bắc Trung Bộ và Công ty TNHH Green Carbon triển khai thí điểm dự án “Tạo tín chỉ Carbon trong sản xuất lúa” trong vụ Thu mùa, với diện tích 100 ha tại xã Yên Phong huyện Yên Định, bước đầu giảm được 4,84 tấn CO2 quy đổi/ha, tương đương 4,84 tín chỉ carbon/ha.
Ngày 12/2/2025, Sở Nông nghiệp và PTNT Thanh Hóa và Công ty Faeger Nhật Bản ký biên bản ghi nhớ thỏa thuận hợp tác xây dựng và triển khai Dự án "Giảm phát thải khí nhà kính và xây dựng tín chỉ Carbon trong sản xuất lúa tại tỉnh Thanh Hoá", với quy mô diện tích năm 2025 là 200 ha, đến năm 2030 dự kiến mở rộng đạt 50.000 ha.
Vụ Xuân năm 2025, Công ty Faeger Nhật Bản phối hợp với Viện Nông nghiệp Thanh Hóa thực hiện mô hình thí nghiệm sản xuất lúa giảm phát thải quy mô 4.000 m2 thông qua phương pháp tưới ướt khô xen kẽ (AWD) tại Trung tâm nghiên cứu khảo nghiệm và dịch vụ cây trồng Thọ Xuân; Vụ Thu mùa 2025 thực hiện mô hình thí nghiệm sản xuất lúa giảm phát thải quy mô 150 ha tại xã Tây Đô và 20 ha tại xã Thọ Long.
Vụ Xuân 2025 phối hợp công ty TNHH Green Carbon triển khai dự án “Tạo tín chỉ Carbon trong sản xuất lúa” với diện tích 1.315 ha tại 10 xã trên địa bàn huyện Yên Định (cũ); Vụ Thu mùa 2025 tiếp rục mở rộng diện tích lên 4.300 ha trên địa bàn 7 xã gồm: Yên Định, Yên Trường, Yên Phú, Quý Lộc, Yên Ninh, Định Tân, Định Hòa.
Phối hợp Trường Đại học Bách Khoa thí điểm mô hình “Ứng dụng AI trong sản xuất nông nghiệp bền vững” quy mô 0,93 ha tại xã Hoằng Thành (nay là xã Hoằng Lộc) và 1,07 ha tại xã Hà Long.
Thực hiện thí điểm 500 ha mía giảm phát thải tại các vùng nguyên liệu của Công ty CP mía đường Lam Sơn (Lasuco).
Hàng nghìn người dân tham gia vào các mô hình sản xuất trồng trọt giảm phát thải, cùng với các HTX và các ban ngành, chính quyền địa phương. Đến thời điểm hiện tại, bà con nông dân rất phấn khởi tiếp nhận và thực hiện quy trình sản xuất giảm phát thải.
Kết quả bước đầu cho thấy, cây trồng sản xuất trong mô hình sinh trưởng phát triển khỏe mạnh, chống chịu với điều kiện ngoại cảnh tốt, ít sâu bệnh hại, năng suất tăng 8-10% so với canh tác truyền thống và tạo ra lượng phát thải thấp (giảm phát thải được 4-5 tấn khí nhà kính/ha, quy đổi được 4-5 tín chỉ carbon/ha).
Ngoài ra, việc sản xuất trồng trọt giảm phát thải còn giúp nông dân kiểm soát chủ động phương thức canh tác, giảm chi phí đầu vào, tạo ra sản phẩm nông nghiệp xanh có giá trị trên thị trường, góp phần bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Đây còn là cơ hội để nông dân tham gia vào thị trường tín chỉ carbon quốc tế, mở ra nguồn thu nhập mới, bền vững cho người nông dân và doanh nghiệp hoạt động trong sản xuất nông nghiệp.
Năm 2023, tỉnh Thanh Hóa là một trong 6 địa phương Bắc Trung Bộ chuyển nhượng thành công tín chỉ carbon rừng, thu về 162,5 tỷ đồng từ 393.000 ha rừng tự nhiên. Năm 2024, Thanh Hóa thí điểm mô hình “Tạo tín chỉ carbon trong sản xuất lúa” trên 100 ha tại huyện Yên Định (cũ), giảm được 4,84 tấn CO₂/ha, tương đương 4,84 tín chỉ carbon/ha. |
PV: Như vậy, Thanh Hóa sẽ mở rộng diện tích lúa giảm phát thải lên hàng nghìn hecta trong thời gian tới, vậy ngành nông nghiệp tỉnh có những giải pháp gì để nhân rộng mô hình, đảm bảo tín chỉ carbon đủ chuẩn tham gia thị trường, đồng thời mang lại lợi ích lâu dài, thưa ông ?
Ông Nguyễn Đức Cường: Trong thời gian tới, Thanh Hóa định hướng mở rộng diện tích sản xuất giảm phát thải trên đối tượng cây trồng chính gồm: cây lúa (quy mô 100.000 ha) và cây mía (quy mô 15.000 ha). Để thực hiện các mục tiêu này, ngành nông nghiệp đã xác định và tập trung triển khai các biện pháp cụ thể.
Thứ nhất, triển khai nhanh và hiệu quả các chủ trương, chính sách, thể chế của các cấp, các ngành liên quan đến sản xuất nông nghiệp xanh, hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao, thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu, ví dụ như: Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ; Đề án phát triển sản phẩm chủ lực; Đề án phát triển cây ăn quả tập trung định hướng đến năm 2030; Kế hoạch phát triển nông nghiệp công nghệ cao, thông minh đến năm 2030....
Tham mưu xây dựng và ban hành kế, cơ chế chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp giảm phát thải, tạo tín chỉ carbon trên một số đối tượng cây trồng chủ lực.
Thứ hai, xây dựng quy trình kỹ thuật chuẩn hóa theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, đặc biệt là áp dụng các phương pháp canh tác tiên tiến như tưới ngập khô xen kẽ (AWD) và hệ thống thâm canh cải tiến (SRI). Việc thống nhất quy trình sẽ giúp đảm bảo tính đồng bộ, minh bạch và có cơ sở khoa học để tính toán lượng phát thải giảm được.
Thứ ba, ứng dụng công nghệ số trong giám sát và báo cáo. Hệ thống quan trắc đồng ruộng, vệ tinh và phần mềm quản lý dữ liệu sẽ được sử dụng để ghi nhận chính xác mức giảm phát thải, đáp ứng các yêu cầu kiểm chứng khắt khe của thị trường tín chỉ carbon trong nước và quốc tế.
Thứ tư, đặc biệt chú trọng xây dựng cơ chế phân chia lợi ích công bằng. Khi có nguồn thu từ tín chỉ carbon, nông dân sẽ là đối tượng được hưởng lợi trực tiếp, từ đó tạo động lực để bà con tích cực tham gia, duy trì và mở rộng diện tích sản xuất nông nghiệp giảm phát thải; Xây dựng các mô hình liên kết mẫu trong sản xuất nông nghiệp giảm phát thải là cơ sở tổng kết và nhân rộng.
Thứ năm, tăng cường hợp tác với doanh nghiệp, tổ chức quốc tế, các viện, trường, các quỹ môi trường… để kết nối thị trường carbon, đồng thời huy động nguồn lực cho đầu tư hạ tầng, đào tạo và chuyển giao kỹ thuật.
Chúng tôi tin rằng, với các giải pháp đồng bộ như vậy, Thanh Hóa không chỉ đảm bảo tín chỉ carbon đủ chuẩn tham gia thị trường mà còn mang lại lợi ích lâu dài cho nông dân, góp phần đưa tỉnh trở thành địa phương đi đầu trong phát triển nông nghiệp xanh, bền vững.
PV: Xin cảm ơn ông!