
Thành tựu nổi bật trong công tác xây dựng CS, PL là Luật TN, MT B&HĐ được Quốc hội Khóa XIII thông qua ngày 25/6/2015, tạo hành lang pháp lý triển khai một cách có hiệu quả phương thức QLTH tài nguyên, BVMT B&HĐ dựa trên tiếp cận hệ sinh thái. Trên cơ sở Luật TN, MT B&HĐ, Tổng cục tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế, CS, PL, công cụ điều phối liên ngành, liên vùng từng bước được xây dựng và triển khai trong công tác điều tra cơ bản, quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên, kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, khắc phục sự cố tràn dầu, hóa chất độc trên biển; quản lý và cấp phép nhận chìm ở biển; đảm bảo tài nguyên B&HĐ được khai thác, sử dụng hiệu quả nhằm PTBV, góp phần bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam trên biển.
Các hoạt động quản lý, khai thác, sử dụng tổng hợp tài nguyên biển được triển khai thông qua xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng biển; không gian biển; QLTH vùng bờ; quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ; giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác,…
Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hai đảo Việt Nam Tạ Đình Thi và Tổng cục trưởng Tổng cục Thuỷ sản Trần Đình Luân ký quy chế phối hợp công tác, năm 2020
Công tác thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển đã được 25 tỉnh/thành phố có biển, trong đó có 14 tỉnh đã ban hành quyết định xác định chiều rộng hành lang bảo vệ bờ biển, 6 tỉnh đã cắm mốc hành lang bảo vệ bờ biển. Để quản lý, khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên các hải đảo, các địa phương có biển đang tích cực triển khai công tác lập hồ sơ tài nguyên hải đảo. Đến nay, có 3 địa phương đã lập hoàn thành việc lập hồ sơ tài nguyên hải đảo và 8 địa phương đang trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này.
Công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường B&HĐ trên cơ sở bộ chỉ số và việc đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường B&HĐ đã được các địa phương có biển tích cực triển khai. Đặc biệt, một số địa phương đã tổ chức triển khai kế hoạch quản lý rác thải nhựa đại dương với những giải pháp phù hợp với điều kiện trên địa bàn (Bà Rịa - Vũng Tàu, Kiên Giang); kiểm soát nguồn thải ra biển bởi các hoạt động từ đất liền như: (Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Bình Định, Khánh Hòa, Bà Rịa - Vũng Tàu, Trà Vinh, Kiên Giang).
Thực hiện nhiệm vụ quản lý điều tra cơ bản TN, MT B&HĐ, Tổng cục đã tham mưu Bộ TN&MT, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương có biển triển khai các nhiệm vụ, dự án thuộc “Đề án Tổng thể điều tra cơ bản và quản lý TN, MT B&HĐ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020” và Chương trình trọng điểm về điều tra cơ bản TN, MT biển đến năm 2030. Công tác điều tra cơ bản đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, cụ thể như: Xác lập được luận cứ khoa học về đặc điểm địa chất qua đó đã củng cố được các cơ sở khoa học để nước ta đệ trình lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa để mở rộng vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ra 350 hải lý theo Công ước 1982 mà nước ta là một thành viên; cung cấp các số liệu quan trọng về hiện trạng, dự báo tiềm năng TN, MT B&HĐ phục vụ công tác lập quy hoạch, kế hoạch khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên, BVMT, góp phần phát triển kinh tế biển bền vững.
Những thế hệ lãnh đạo tận tâm vì sự nghiệp điều tra TN&MT biển.
Các phát hiện quan trọng về tiềm năng khoáng sản biển như: Khoáng sản vật liệu xây dựng, khoáng sản titan ven biển, kim loại đáy biển và đặc biệt là việc phát hiện thêm các khu vực có dấu hiệu khí hydrate và khu vực chứa dầu khí. Đây là những tài nguyên có giá trị lớn trong phát triển kinh tế biển, đồng thời, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng của nước ta trong bối cảnh các nguồn tài nguyên năng lượng đang dần cạn kiệt trong khi đó nhu cầu năng lượng ngày càng tăng cao. Bên cạnh đó, việc thực hiện bay đo từ - trọng lực tỷ lệ 1:25.000 B&HĐ Việt Nam, kết quả xử lý sơ bộ đã xác định các hệ thống đứt gãy lớn, phân chia các đới cấu trúc, các bồn trũng, các khu vực xuất lộ đá móng, các khu vực phân bố bazan, các họng núi lửa. Bước đầu đã cung cấp bức tranh trường dị thường từ và trường dị thường trọng lực các vùng biển đã bay đo, đây là kết quả quan trọng để minh giải tài liệu địa chất, là cơ sở để thành lập các bản đồ cấu trúc, bản đồ triển vọng khoáng sản và các bản đồ chuyên đề khác, đồng thời góp phần khẳng định chủ quyền biển, đảo Việt Nam trên trường quốc tế. Điều tra, khảo sát đặc điểm địa chất công trình tỷ lệ 1:100.000 dải ven biển trên diện tích 65.400 km2, tăng 48.571 km2 so với năm 2018 (16.829 km2), khoanh định được các khu vực kém ổn định về địa chất công trình, xác định các quá trình địa chất công trình như hiện tượng ngập lụt, xói lở, bồi tụ,... Ở vùng biển sâu, xa bờ đã tiến hành điều tra và thành lập các bản đồ địa chất công trình từ tỷ lệ 1: 1000 - 1:500 ở vùng biển quần đảo Trường Sa và DKI.
Khí tượng, hải văn, môi trường biển: Đã điều tra, xử lý và thành lập các bản đồ khí tượng hải văn tỷ lệ 1:10.000 cho 9 đảo/cụm đảo; vùng biển quần đảo Trường Sa và DKI; vùng cửa sông chính của Việt Nam. Xác định khả năng chống chịu, sức tải môi trường và hệ sinh thái các vùng biển ven bờ từ Quảng Ninh đến Kiên Giang,...
Ra biển với những công nghệ hiện đại
Xây dựng hệ thống CSDL: Đến nay, đã xây dựng được hệ thống CSDL dạng số về TN, MT biển và lưu trữ tại Trung tâm Thông tin, dữ liệu B&HĐ quốc gia. Hiện đang tiến hành triển khai đầu tư nâng cấp hệ thống CSDL biển quốc gia tích hợp, liên thông với hệ CSDL quốc gia về TN&MT và các CSDL quốc gia của các ngành, lĩnh vực khác; triển khai việc tích hợp và số hóa CSDL TN&MT biển của các bộ, địa phương với CSDL biển quốc gia, đầu tư nâng cấp hạ tầng công nghệ đảm bảo việc nhập, cập nhật, khai thác, chia sẻ dữ liệu đối với các hệ thống CSDL biển đảo của các bộ và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển.
Lực lượng tham gia công tác điều tra cơ bản TN, MT B&HĐ ngày càng được nâng cao hơn về trình độ để tự chủ trong công tác quản lý và điều tra cơ bản TN, MT B&HĐ; hợp tác với các nước tiên tiến trên thế giới để điều tra ở một số khu vực biển đã góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam ở vùng Biển Đông.
Bước đầu đã đầu tư cơ sở hạ tầng KH,CN, trang thiết bị về điều tra cơ bản TN, MT B&HĐ phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, khảo sát B&HĐ. Song song với đó, trong những năm qua Tổng cục B&HĐ Việt Nam còn luôn chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức cho cộng đồng như sự kiện thường niên kỷ niệm Ngày Đại dương thế giới và Tuần lễ B&HĐ Việt Nam là một điển hình.
Mặc dù đã có những kết quả đáng ghi nhận, nhưng thực tế công tác B&HĐ còn rất nhiều khó khăn, bất cập, cần được tiếp tục quan tâm, đầu tư hơn nữa để trong thời gian tới, công tác xây dựng CS, PL sẽ tiếp tục được hoàn thiện; công tác quản lý khai thác sử dụng biển, kiểm soát ô nhiễm và BVMT biển tiếp tục đi vào khuôn khổ; Chương trình trọng điểm về điều tra cơ bản TN, MT biển đến năm 2030 triển khai có hiệu quả, cùng với Quy hoạch không gian biển, Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ được phê duyệt, đưa vào thực hiện sẽ góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của BCH Trung ương Đảng Khóa XII về Chiến lược PTBV kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với mục tiêu và tầm nhìn đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, PTBV, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước.
Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam