
Xây dựng công cụ ràng buộc pháp lý quốc tế về ô nhiễm nhựa
Trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới đang hướng tới thỏa thuận đầu tiên về kiểm soát ô nhiễm nhựa, quá trình đàm phán hiện nay được đánh giá là khó khăn trong việc xác định có nên hạn chế lượng nhựa sản xuất ra, hay chỉ tập trung vào việc quản lý rác thải nhựa. Liên minh châu Âu (EU) cùng nhiều quốc gia, trong đó có Nhật Bản, Canada và Kenya,… đã kêu gọi có một hiệp ước mạnh với các điều khoản mang tính ràng buộc nhằm giảm việc sản xuất và sử dụng nhựa nguyên sinh, được tạo ra từ quá trình chưng cất phân đoạn dầu mỏ, cũng như xóa bỏ hoặc hạn chế các loại nhựa gây ô nhiễm. Quan điểm này vấp phải sự phản đối từ các nước xuất khẩu dầu mỏ, sản phẩm hóa dầu và nhựa. Theo những quốc gia này, hiệp ước cần tập trung vào việc tái chế và tái sử dụng nhựa, thông qua khái niệm “tuần hoàn nhựa”, bởi nguồn gốc của ô nhiễm nhựa là “việc quản lý chưa hiệu quả” nhựa và chất thải nhựa.
Một số nước nằm ở hạ nguồn các con sông lớn cũng đề cập đến những tác động tiêu cực của rác thải nhựa khi dễ dàng vận chuyển thượng nguồn thông qua các tuyến đường thuỷ, đường sông liên vùng, liên quốc gia đối với hệ sinh thái và sức khoẻ con người. Việc cập nhật và giám sát hiện trạng ô nhiễm chất thải nhựa tại những quốc gia này cần được thực hiện ngay nhằm hướng tới giảm thiểu những ảnh hưởng của chất thải nhựa. Ngoài ra, danh sách các nước nằm ở cuối nguồn các con sông và đang chịu ảnh hưởng cần được thể hiện trong phần phụ lục của dự thảo để các quốc gia này dễ dàng tiếp cận các nguồn hỗ trợ quốc tế.
Phiên họp thứ 3 được chia thành 03 Nhóm Liên hệ để tập trung thảo luận các nội dung chính của Dự thảo số 0:
Nhóm Liên hệ 1: Thảo luận về nhựa polymer nguyên sinh; hóa chất và polymer đáng quan tâm; các sản phẩm nhựa có vấn đề và có thể tránh được, bao gồm các sản phẩm nhựa dùng 1 lần và nhựa có thời gian sử dụng ngắn. Tại Phiên họp này, các ý kiến đều cho thấy chưa rõ ràng về phương án lựa chọn và danh mục các hoá chất và Polyme cấm/hạn chế sử dụng. Các định nghĩa, phân loại về các sản phẩm hoá chất độc hại dùng trong ngành nhựa và lộ trình cụ thể để hạn chế sử dụng cho từng loại cần thảo luận thêm.
Nhóm liên hệ 2: Thảo luận các nội dung liên quan đến xây dựng năng lực, hỗ trợ kỹ thuật và chuyển giao công nghệ; kế hoạch quốc gia; thực hiện và tuân thủ; báo cáo tiến độ; giám sát định kỳ tiến độ và đánh giá hiệu quả triển khai; hợp tác quốc tế; trao đổi thông tin; nâng cao nhận thức, giáo dục và nghiên cứu. Đa số các nước đang phát triển đều tập trung đề nghị các nước phát triển hỗ trợ tăng cường năng lực, kỹ thuật và chuyển giao công nghệ trong việc giải quyết rác thải nhựa và trong nghiên cứu, bổ sung, làm rõ hiện trạng rác thải nhựa để có các giải pháp cụ thể, khả thi, phù hợp với điều kiện thực tế của từng nước. Đồng thời, đề xuất nghiên cứu, chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức về các kỹ thuật, công nghệ mới trong xử lý rác thải nhựa, kiểm soát và quản lý ô nhiễm nhựa, bảo đảm đạt được mục tiêu của Thỏa thuận này, bảo đảm sức khỏe con người và bảo vệ môi trường. Một số nước phát triển như: Cộng đồng châu Âu nhấn mạnh đến vấn đề sinh kế, phụ nữ và thanh thiếu niên là những đối tượng dễ bị tác động bởi ô nhiễm rác thải nhựa cần được đề cập trong kế hoạch quốc gia.
Các nước cũng đề nghị có cơ chế phân bổ nguồn lực công bằng, ưu tiên các nước đang phát triển và các nước nghèo, phát triển kém. Các nước phát triển sẽ hỗ trợ kỹ thuật và chuyển giao công nghệ tương ứng và phù hợp cho các nước đang phát triển và kém phát triển, nước nghèo. Nguồn tài chính sẽ được kêu gọi từ nhiều nguồn đa phương, song phương và đặc biệt nguồn tài chính của mỗi quốc gia.
Nhóm liên hệ 3: Thảo luận phần Mở đầu, Khái niệm và Phạm vi và nội dung liên quan đến sắp xếp thể chế và các cơ quan trực thuộc. Các nước đề nghị Dự thảo số 0 cần tham chiếu đến Nghị quyết UNEA 5/14, Tuyên bố Rio và Nghị quyết 48/13 của UNGA về quyền môi trường trong sạch và bền vững và tập trung thảo luận khái niệm về nhựa, ô nhiễm nhựa, nhựa vi mô, nhựa có vấn đề và có thể tránh được, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), nhựa tái chế.
Việt Nam đã tham gia tích cực trong các Nhóm liên hệ
Trong cuộc họp của Nhóm liên hệ 2, đại diện của Cục Biển và Hải đảo Việt Nam đã phát biểu và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hỗ trợ xây dựng kế hoạch quốc gia và các cách tiếp cận toàn diện. Việt Nam quan tâm đến việc xây dựng môi trường chính sách, đổi mới, chuyển giao và tiếp cận công nghệ giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế các sản phẩm nhựa và mong muốn nhận được sự hỗ trợ từ các nước phát triển. Bên cạnh đó, Việt Nam mong muốn nhận được hỗ trợ nhiều hơn nữa trong giám sát, theo dõi chủng loại và khối lượng sản xuất, nhập khẩu và xuất khẩu hóa chất và polyme trong suốt vòng đời nhựa cũng như đánh giá năng lực tái chế nhựa. Ngoài ra, điều quan trọng là phải làm rõ trong Dự thảo số 0 về mối liên hệ giữa Kế hoạch quốc gia và các mục tiêu toàn cầu để đảm bảo rằng Kế hoạch quốc gia có thể khuyến khích các quốc gia thiết lập và đạt được các mục tiêu đầy tham vọng Dự thảo số 0 phù hợp với khả năng của họ. Ngoài ra, báo cáo quốc gia cần tránh tạo ra các nghĩa vụ bổ sung không cần thiết và tránh trùng lặp các yêu cầu báo cáo khác trong các hiệp định môi trường đa phương khác.
Các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, rác thải nhựa phát sinh từ hoạt động du lịch, dịch vụ biển, kinh tế biển, khai thác dầu khí, tài nguyên khoáng sản biển, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản phải được thu gom, lưu giữ, chuyển giao cho cơ sở có chức năng tái chế, xử lý. Việc giải quyết ô nhiễm nhựa trong môi trường biển là một thách thức lớn, đặc biệt là nguồn lực thực hiện, các kỹ thuật, công nghệ phù hợp, các hỗ trợ cho công tác nghiên cứu khoa học, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Các thách thức này cũng tương tự như các thách thức đặt ra đối với việc giải quyết vấn đề ô nhiễm nhựa theo cách tiếp cận vòng đời nhựa.
Nhìn chung, quan điểm của các quốc gia đã thể hiện rõ giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, giữa các quốc gia sản xuất dầu mỏ lớn và các quốc gia đang chịu ảnh hưởng bởi ô nhiễm nhựa. Các cuộc thảo luận đều thẳng thắn chia sẻ ưu tiên và những rào cản để đạt được mục tiêu của Bản Dự thảo số 0.
Đoàn công tác của Cục Biển và Hải đảo Việt Nam cùng với Đoàn công tác tham gia đàm phán của Bộ TN&MT và các Bộ, ngành khác tham gia thảo luận các nội dung tại các Nhóm liên hệ trong các ngày còn lại của Phiên họp thứ 3 và đã kết thúc vào 19/11/2023.
Một số điểm còn nhiều tranh cãi sau khi UN INC3 đã kết thúc
Lần đàm phát này đã thu hút hơn 500 đề xuất từ các chính phủ, những tổ chức phi chính phủ, cùng nỗ lực để cuối năm 2024 đạt được thỏa thuận kiểm soát nhựa và ô nhiễm nhựa.
Tất cả các quốc gia đều vẫn đang cân nhắc về các lựa chọn nêu trong dự thảo văn kiện. Thụy Sĩ và Uruguay đề xuất mong muốn hạn chế các polyme và hóa chất có hại và đã nhận được sự ủng hộ từ hơn 100 quốc gia thành viên. Một số đại biểu khác cho rằng “Các nhà sản xuất và xuất khẩu nhiên liệu hóa thạch lớn đã trì hoãn nỗ lực tiến tới kiểm soát nhựa và ô nhiễm nhựa một cách hiệu quả”. Canada, Kenya và Liên minh châu Âu nằm trong số những nước cho rằng cần hạn chế sản xuất nhựa, trong Nga, Ả Rập Saudi và các nước khác đang tìm cách nhấn mạnh vào việc tái chế.
Các đại biểu tập trung thảo luận về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR). Lựa chọn nâng cao tỷ lệ tái sử dụng, và tái chế cũng như kích thích thị trường thứ cấp hay linh hoạt trong việc thực hiện các chương trình EPR dựa trên chủ quyền, năng lực mỗi quốc gia hay hợp nhất cả hai phương án vẫn còn nhiều bàn luận. Có quốc gia lên tiếng ủng hộ việc không đưa tùy chọn về EPR, trong khi một quốc gia khác kêu gọi đưa điều này vào các quy định về quản lý chất thải. Cũng có ý kiến đề xuất áp dụng EPR để thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.
Các đại biểu thảo luận về các thuật ngữ liên quan đến “lượng khí thải” và “sự thải ra” sẽ liên quan như thế nào đến quy định của Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC). Một số quốc gia đề nghị tiến hành nghiên cứu khoa học chi tiết hơn về việc phát thải nhựa và kêu gọi tập trung điều khoản này vào việc phát thải và thải ra các viên, mảnh và bột nhựa từ quá trình sản xuất, lưu trữ, xử lý và vận chuyển. Còn một số khác chỉ ra rằng, nên ưu tiên cách tiếp cận theo ngành để giải quyết các nguồn phát thải và phát thải polyme nhựa, nhựa, bao gồm cả vi nhựa và các sản phẩm nhựa trong suốt vòng đời của chúng. Nhiều quốc gia đề nghị đưa ngôn ngữ liên quan đến ngư cụ bị bỏ rơi, thất lạc hoặc vứt bỏ (ALDFG) vào điều khoản này.
Có một số đề nghị không nên sao chép các công cụ hiện có, chẳng hạn như Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO). Ý kiến khác cho rằng nhấn mạnh, cần có phương tiện và công cụ thực hiện quản lý chất thải.
Một số quốc gia coi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là cơ chế duy nhất để thảo luận các vấn đề thương mại, buôn bán các hóa chất, polyme và sản phẩm được liệt kê cũng như chất thải nhựa. Một số lưu ý rằng, các điều khoản thương mại trong ILBI có thể tác động tiêu cực đến các nước đang phát triển, bao gồm cả việc tạo ra các rào cản thương mại và những thách thức không cần thiết khác. Về vận chuyển xuyên biên giới của chất thải nhựa, nhiều đại biểu kêu gọi tránh trùng lặp với các quy định liên quan của Công ước Basel.
Liên quan đến ô nhiễm nhựa hiện nay, bao gồm cả môi trường biển, một số ý kiến đề nghị lưu ý đến việc thiếu các quy định ràng buộc về khắc phục và viện dẫn các trường hợp đặc biệt của SIDS, kêu gọi thiết lập khung pháp lý để giải quyết ô nhiễm nhựa xuyên biên giới, đặc biệt là ALDFG, phù hợp với Công ước Cartagena và MARPOL. Hệ thống kiến thức bản địa cũng được nhắc đến trong các phiên họp lần này.
Hỗ trợ kỹ thuật và tài chính là điều tối quan trọng để tạo điều kiện cho quá trình chuyển đổi công bằng. Một số đại biểu nhấn mạnh, sự cần thiết phải có điều kiện làm việc phù hợp cho các tác nhân tham gia quản lý chất thải và chuỗi giá trị nhựa, đặc biệt là những người nhặt rác không chính thức trong quá trình chuyển đổi công bằng. Những người nhặt rác không chính thức cần được cập nhật trong các chính sách xã hội tương ứng của mỗi quốc gia, đồng thời xác định rằng việc quản lý rác thải thuộc thẩm quyền của chính quyền quốc gia và địa phương.
Liên quan đến tính minh bạch, theo dõi, giám sát và ghi nhãn, có ý kiến đề nghị xem xét kết quả tích cực của việc dán nhãn bao bì và nhấn mạnh rằng cần phải thu thập thông tin trong suốt vòng đời của nhựa. Có ý kiến khác cho rằng, cần phải làm rõ liệu có nên đưa các tham chiếu các quy định quốc gia vào ILBI hay không và nếu có thì liệu điều này có phù hợp hơn với quy định về báo cáo tổng kết không.
Về sắp xếp thể chế, các nước nhất trí thành lập các loại cơ quan/ban trực thuộc để tham mưu cho các cơ quan quản lý, bao gồm: Các vấn đề khoa học và kỹ thuật/công nghệ; theo dõi, rà soát và đánh giá; thực hiện và tuân thủ; và các vấn đề tài chính/kinh tế. Một số phái đoàn nhấn mạnh, sự cần thiết phải đảm bảo tính toàn diện và công bằng của các cơ quan này, được hướng dẫn bởi sự đồng thuận, có sự quan tâm đúng mức đến sự cân bằng về địa lý và giới tính cũng như nguyên tắc trách nhiệm chung nhưng có phân biệt (CBDR).
Nhiều ý kiến lại đưa ra, cần thành lập ngay một số cơ quan trực thuộc để tiến hành công việc giữa kỳ, nhưng lại có ý kiến khác nhau về việc liệu tất cả có cần được thành lập đồng thời hay không. Về điểm này, có ý kiến lưu ý rằng mặt hạn chế về thời gian, nội dung khoa học và kỹ thuật có thể không đạt được tất cả các kết quả mong muốn trong giai đoạn giữa kỳ. Tầm quan trọng về sự tham gia của nhiều bên liên quan trong việc cung cấp thông tin cho công việc của các cơ quan quản lý, chú ý đến vai trò của các tổ chức phi chính phủ, giới học thuật và ngành công nghiệp.
Về Báo cáo tổng hợp, một số quốc gia nhấn mạnh rằng các điều khoản này cần được đàm phán sau khi các nghĩa vụ cụ thể của điều ước đã được thống nhất. Hiệp ước có phụ lục hay không vẫn chưa được xác định tại INC3.
Các nước đã ủng hộ rộng rãi việc thành lập nhóm soạn thảo pháp lý ở giai đoạn sau của cuộc đàm phán để xác định các điều khoản cuối cùng, tham khảo quy trình được thông qua cho Công ước Minamata. Có đề nghị các điều khoản cuối cùng phải có được sự đồng thuận. Theo đó, yêu cầu Ban Thư ký biên soạn và ban hành “văn bản sửa đổi” trước ngày 31/12/2023, để làm cơ sở cho các cuộc đàm phán tại INC-4 tại Canada vào tháng 4/2024.
HƯƠNG LOAN
Cục Biển và Hải đảo Việt Nam
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 23 năm 2023