
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập số liệu
Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Thu thập tài liệu, số liệu về điều kiện tự nhiên, KT-XH, hiện trạng sử dụng đất, các báo cáo về kết quả thu ngân sách từ năm 2014 đến năm 2018 tại các cơ quan chức năng: Chi cục thống kê, Chi cục Thuế huyện Tây Hòa.
Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
Chọn điểm điều tra: Dựa vào thực tế công tác thu tài chính từ đất đai, nghiên cứu này đã chọn 3 xã, thị trấn đại diện cho toàn huyện Tây Hòa để thu thập số liệu sơ cấp: Thị trấn Phú Thứ, xã Hòa Phong và xã Sơn Thành Đông.
Chọn hộ và phỏng vấn bằng phiếu điều tra: Căn cứ số số hộ có thực hiện nghĩa vụ tài chính năm 2018 của 3 địa bàn nghiên cứu và bằng công thức chọn mẫu của Slovin (1960): n = N/(1 + Ne2), trong đó N là tổng số hộ thực hiện nghĩa vụ tài chính (thị trấn Phú Thứ: 484 hộ, xã Hòa Phong: 419 hộ và xã Sơn Thành Đông: 386 hộ), e là sai số (10%); đã tiến hành phỏng vấn bằng phiếu điều tra 93 hộ dân (mỗi xã, thị trấn điều tra 31 hộ dân), nội dung chính của Phiếu điều tra là:(1) Thông tin chung của hộ điều tra, (2) Tình hình thực hiện nghĩa vụ tài chính (NVTC) của người dân năm 2018, (3) Mức độ hài lòng của người dân khi thực hiện NVTC.
Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu
Dựa trên cơ sở số liệu thu thập, tiến hành tổng hợp, phân tích theo từng chỉ tiêu và nội dung cụ thể, số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm Excel.
Kết quả nghiên cứu
Đặc điểm chung của huyện Tây Hòa
Theo số liệu thống kê năm 2018 thì tổng diện tích tự nhiên của huyện Tây Hòa là 62.375,1 ha. Trong đó, đất nông nghiệp là 53.632,64 ha, chiếm tỷ lệ 86% diện tích tự nhiên; đất phi nông nghiệp là 6.453,57 ha, chiếm tỷ lệ 10,4% diện tích tự nhiên; đất chưa sử dụng là 2.288,89 ha, chiếm tỷ lệ 3,7% diện tích tự nhiên. Dân số toàn huyện là 116.272 người với 25.113 hộ. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2018 là 1%. Mật độ dân số trung bình toàn huyện 191 người/km2. Bình quân thu nhập đầu người theo giá thực tế năm 2018 đạt 23,16 triệu đồng/người (Chi cục Thống kê huyện Tây Hòa, 2019)
Tình hình thu tài chính từ đất đai của huyện Tây Hòa giai đoạn 2014-2018
Kết quả thu ngân sách từ đất đai
Kết quả thu ngân sách và nguồn thu ngân sách từ đất đai của huyện Tây Hòa giai đoạn 2014-2018 được thể hiện ở Bảng 1.
Bảng 1. Kết quả thu ngân sách và nguồn thu ngân sách từ đất đai của huyện Tây Hòa giai đoạn 2014 - 2018 (Đơn vị tính: triệu đồng)
Số liệu ở Bảng 1 cho thấy từ năm 2014 đến năm 2018, tổng thu ngân sách trên địa bàn huyện Tây Hòa đạt 279.854 triệu đồng, trong đó thu từ đất đai đạt 106.524 triệu đồng, chiếm 38,1% tổng thu ngân sách của huyện. Nhìn chung, thu ngân sách từ đất đai tăng dần qua các năm và tỷ lệ thuận với tổng thu ngân sách trên địa bàn huyện. Từ năm 2014 đến năm 2018 nguồn lực tài chính từ đất đai luôn chiếm tỷ lệ cao trong hệ thống các nguồn thu ngân sách của huyện, dao động từ 29,44 đến 46,19% trong tổng thu ngân sách trên địa bàn huyện Tây Hòa. Trong giai đoạn 2014-2018, trong các nguồn thu ngân sách từ đất đai của huyện, thu từ tiền sử dụng đất chiếm tỷ trọng cao nhất (chiếm 85% so với tổng thu ngân sách từ đất đai), tiếp đến là thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất (chiếm 4,8%) và phí và lệ phí trong quản lý và sử dụng đất (chiếm 4,3%) và tiền thuê đất (chiếm 4%).
Kết quả thu tiền SDĐ trên địa bàn huyện Tây Hòa giai đoạn 2014-2018 được thể hiện ở Bảng 2.
Bảng 2. Kết quả thu tiền sử dụng đất tại huyện Tây Hòa giai đoạn 2014 - 2018 (Đơn vị tính: triệu đồng)
Qua bảng 2, nhìn chung công tác thu tiền SDĐ trên địa bàn huyện Tây Hòa từ năm 2014 đến 2018 về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đề ra, số thu qua các năm đều rất cao, ổn định, chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng thu ngân sách từ đất đai (dao động từ 77,5% đến 86,5%), trong đó số thu tiền SDĐ từ bán đấu giá quyền SDĐ giữ vai trò quan trọng trong việc giữ ổn định nguồn thu tiền SDĐ, chiếm tới 68,1% trong tổng số thu tiền SDĐ. Để đạt được kết quả nêu trên, UBND huyện đã tập trung công tác quy hoạch, thực hiện các dự án tạo quỹ đất trên địa bàn huyện, thúc đẩy thị trường bất động sản, thực hiện tốt việc khai thác quỹ đất để bán đấu giá quyền sử dụng.
Tuy vậy, thực tế áp dụng chính sách thu tiền SDĐ trên địa bàn huyện Tây Hòa còn có một số khó khăn, vướng mắc ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thu tiền SDĐ như:
- Để được công nhận quyền SDĐ thì người SDĐ phải bỏ ra một số tiền để đóng tiền SDĐ. Đa số các hộ dân làm nghề sản xuất nông nghiệp, thu nhập thấp không có khả năng đóng tiền SDĐ do đó cũng không có nhu cầu được cấp giấy chứng nhận mặc dù hiện nay có chính sách cho ghi nợ tiền SDĐ. Đơn cử một hộ dân ở thị trấn Phú Thứ, nguồn gốc SDĐ ở sau năm 1993, không có giấy tờ về quyền SDĐ, sử dụng ổn định, không tranh chấp với diện tích đất 450,0 m2, mặt tiền đường Quốc lộ 29 có giá đất trong Bảng giá đất là 2.300.000 đồng/m2, diện tích công nhận hạn mức đất ở là 300 m2, thu 50% đối với diện tích đất trong hạn mức là 300 m2, thì số tiền SDĐ của hộ phải nộp để công nhận quyền SDĐ đối với 300m2 đất ở trong hạn mức là 345.000.000 đồng. Phải hoàn thành NVTC này, hộ mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ). Phải bỏ ra một khoản tiền lớn đóng tiền SDĐ trong khi cuộc sống còn nhiều khó khăn nên nhiều hộ không quan tâm tới việc xin cấp GCNQSDĐ. Vì vậy, rất khó khăn trong việc vận động hộ dân cấp GCNQSDĐ và thực hiện NVTC đúng hạn.
- Theo Luật quản lý thuế, khi có thông báo nộp tiền SDĐ, nếu người SDĐ chậm nộp tiền thì phải nộp một khoản phạt nhưng nếu người dân chưa có đủ khả năng nộp tiền thì được ghi nợ vào Giấy chứng nhận mà không phải chịu tiền phạt chậm nộp. Số ghi nợ nếu được thanh toán trong vòng 5 năm thì người dân chỉ nộp tiền theo giá đất tại thời điểm cấp GCNQSDĐ. Nhiều hộ dân chưa nắm rõ quy định nên thực hiện quá 5 năm ghi nợ dẫn đến khoản tiền phải nộp lớn.
- Về việc xác định nguồn gốc SDĐ, thời điểm SDĐ để tính tiền SDĐ thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của UBND cấp xã có ảnh hưởng rất lớn đến số tiền mà người SDĐ phải nộp. Và đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tham nhũng từ việc xác nhận nguồn gốc SDĐ và cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình, cá nhân của chính quyền cấp xã, cấp huyện.
- Trong quá trình xem xét miễn tiền SDĐ đối với những đối tượng có sự mất công bằng vì theo quy định tại chính sách thu tiền SDĐ thì để được miễn tiền SDĐ, người SDĐ phải nộp hồ sơ xin miễn, giảm tiền SDĐ cùng với hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận, xin chuyển mục đích SDĐ. Thực tế đối tượng được miễn, giảm tiền SDĐ là các hộ gia đình, cá nhân là hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số… nên không nắm bắt được thông tin, do đó không nộp hồ sơ xin miễn, giảm tiền SDĐ cùng với hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ nên không được miễn tiền SDĐ.
Bảng 3. Tình hình ghi nợ tiền sử dụng đất trên địa bàn huyện Tây Hòa
- Trong quy định thực hiện NVTC về đất đai còn phức tạp, bất hợp lý, dẫn đến kẽ hở để người SDĐ trốn thuế. Trường hợp này xảy ra khi người dân tự chuyển quyền SDĐ với nhau không khai báo với cơ quan chức năng của Nhà nước dẫn đến thất thu ngân sách và khó kiểm soát thị trường bất động sản.
Việc quy định ghi nợ tiền SDĐ là chủ trương của Nhà nước nhằm giúp đỡ cho những người có khó khăn về tài chính khi thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước khi được cấp GCNQSDĐ. Chủ trương này đã được quy định từ khi Luật Đất đai năm 2003 vẫn còn hiệu lực và tiếp tục được kế thừa tại Luật Đất đai năm 2013. Cụ thể được quy định tại khoản 4 Điều 5 Nghị định17/2006/NĐ-CP, khoản 4 Điều 8 Nghị định 120/2010/NĐ-CP và Điều 16 Nghị định 45/2014/ NĐ-CP.
Qua Bảng 3 cho thấy tình hình ghi nợ tiền sử dụng đất tăng dần qua các năm từ năm 2014 đến năm 2018, Chi cục thuế thực hiện việc ghi nợ đối với 29 đối tượng sử dụng dụng đất là hộ gia đình, cá nhân với tổng số tiền ghi nợ là 847,20 triệu đồng. Hiện nay các hộ này chưa trả nợ vì chưa đến kỳ hạn trả nợ.
Tổng hợp phiếu điều tra về thực hiện nghĩa vụ tài chính từ đất đai
Bảng 4. Tổng hợp ý kiến của người dân về thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai tại huyện Tây Hòa
Số liệu ở Bảng 4 cho thấy, trong 93 hộ điều tra có 56 hộ (chiếm 60,2%) đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính, còn 37 hộ (chiếm 39,8%) còn nợ nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước. Có 63,4% và 66,7% số hộ được phỏng vấn cho rằng các văn bản hướng dẫn việc thực hiện nghĩa vụ tài chính và quy trình tiếp nhận, trả hồ sơ xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai là đơn giản.
Kết luận
Giai đoạn 2014-2018 tổng thu ngân sách huyện Tây Hòa đạt 279.854 triệu đồng, trong đó nguồn thu từ đất đai là 106.524 triệu đồng, chiếm 38,1% tổng thu ngân sách toàn huyện. Nhìn chung, thu ngân sách từ đất đai tăng dần qua các năm và tỷ lệ thuận với tổng thu ngân sách trên địa bàn huyện. Từ năm 2014 đến năm 2018 nguồn lực tài chính từ đất đai luôn chiếm tỷ lệ cao trong hệ thống các nguồn thu ngân sách của huyện, dao động từ 29,44 đến 46,19% trong tổng thu ngân sách trên địa bàn huyện Tây Hòa. Trong giai đoạn 2014-2018, trong các nguồn thu ngân sách từ đất đai của huyện, thu từ tiền sử dụng đất chiếm tỷ trọng cao nhất (chiếm 85% so với tổng thu ngân sách từ đất đai), tiếp đến là thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất (chiếm 4,8%) và phí và lệ phí trong quản lý và SDĐ (chiếm 4,3%) và tiền thuê đất (chiếm 4%). Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy việc thực hiện NVTC và cấp GCNQSDĐ tại địa bàn nghiên cứu có những khó khăn, và các cơ quan liên quan cần cải cách thủ tục hành chính để đơn giản hóa các văn bản hướng dẫn và quy trình tiếp nhận, trả hồ sơ thực hiện nghĩa vụ tài chính tại địa bàn nghiên cứu trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chi cục Thống kê huyện Tây Hòa (2019), Niên giám thống kê huyện Tây Hòa năm 2018.
2. Chi cục Thuế huyện Tây Hòa (2019), Báo cáo tổng kết quả tình hình thu ngân sách từ đất đai tại huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên giai đoạn 2014-2018.
TRẦN THANH ĐỨC
Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế
TRƯƠNG THỊ HOA LÝ
Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên
ĐÀO ĐỨC HƯỞNG
Công ty Tài nguyên và Môi trường miền Nam