
Về tỷ lệ tái chế
Điều 54 Luật BVMT 2020 thì, tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu (nhà sản xuất, nhập khẩu) sản phẩm, bao bì có giá trị tái chế phải thực hiện tái chế theo tỷ lệ và quy cách tái chế bắt buộc. Theo đó, dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT đã quy định: Tỷ lệ tái chế bắt buộc là tỷ lệ khối lượng sản phẩm, bao bì tối thiểu phải được tái chế theo quy cách tái chế bắt buộc trên tổng khối lượng sản phẩm, bao bì sản xuất và đưa ra thị trường, khối lượng nhập khẩu sản phẩm, bao bì trong năm thực hiện trách nhiệm. Tỷ lệ tái chế bắt buộc của từng loại sản phẩm, bao bì được xác định trên cơ sở vòng đời, tỷ lệ thải bỏ, tỷ lệ thu gom của sản phẩm, bao bì; mục tiêu tái chế quốc gia, yêu cầu BVMT và điều kiện KT-XH từng thời kỳ. Tỷ lệ tái chế bắt buộc trong 3 năm đầu tiên được quy định tại cột 4 Phụ lục 8 phần Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định. Tỷ lệ tái chế bắt buộc được điều chỉnh 3 năm một lần tăng dần để thực hiện mục tiêu tái chế quốc gia và yêu cầu BVMT.
Theo dự thảo Nghị định quy định một số điều của Luật BVMT, tỷ lệ tái chế bắt buộc cao nhất dự kiến là bao bì nhôm, chai PET ở mức 22% và thấp nhất là phương tiện giao thông ở mức 0,5%. Tỷ lệ này chỉ bằng 1/3 tỷ lệ tái chế của các quốc gia ở Châu Âu từ những năm 80 và 90 của thế kỷ trước, đối với phương tiện giao thông thì chỉ bằng 1/5 của Châu Âu thời điểm mới bắt đầu áp dụng EPR.
Đối với các loại bao bì: Tỷ lệ tái chế bắt buộc đối với bao bì sắt và kim loại khác là 20% trong khi đó ở Hàn Quốc và EU tại thời điểm áp dụng có tỷ lệ lần lượt là 70%, 50%;
Đối với ắc quy: Tỷ lệ tái chế bắt buộc là 12% (ắc quy chì) và 8% (đối với các loại ắc quy khác) trong khi đó ở Hàn Quốc và EU tại thời điểm áp dụng có tỷ lệ lần lượt là 24,9%, 25%;
Đối với sản phẩm điện, điện tử: Tỷ lệ tái chế bắt buộc thấp nhất là 3% (tấm quang năng); 15% (đối với điện thoại di động) thì ở Hàn Quốc và EU tại thời điểm áp dụng có tỷ lệ lần lượt là 38,9%, 45%;
Đối với các sản phẩm khác, tỷ lệ tái chế được quy định tương đối thấp.
Hiện nay, dự thảo Nghị định quy định các nguyên, vật liệu phải thu hồi được tối thiểu là 40%, không phải là tỷ lệ tái chế bắt buộc như đã nêu ở trên. Ví dụ, khi tái chế một chiếc máy tính thì vật liệu nhựa, kim loại,... trong máy tính đó phải được thu hồi tối thiểu là 40% khối lượng vật liệu của máy tính đó, còn lại sẽ phải xử lý theo quy định. Tỷ lệ thu hồi này được đặt ra nhằm tối ưu hoá việc tái chế và thu hồi nguyên liệu và đang được dự thảo Nghị định quy định thấp hơn khoảng 15 - 30% so với Châu Âu ở giai đoạn bắt đầu áp dụng EPR. Việc thu hồi tối thiểu 40% liệu đó phải bảo đảm quy cách tái chế tối thiểu quy định tại cột 5 Phụ lục 8 ban hành kèm theo Nghị định. Ví dụ: Bao bì nhựa phải được tái chế thành một trong ba cách thức sau: (1) Sản xuất hạt nhựa tái sinh sử dụng làm nguyên liệu sản xuất cho các ngành công nghiệp. (2) Sản xuất sản phẩm khác (bao gồm cả xơ sợi PE). (3)Sản xuất hóa chất (trong đó có dầu).
Theo thống kê của WWF, IUCN và Hiệp hội nhựa Việt Nam, thì hiện nay, nhựa PET ở Việt Nam, đã được thu hồi và tái chế hơn 70%, lon nhôm thu hồi và tái chế hơn 80% tuy nhiên, việc tái chế chủ yếu được thực hiện tại các cơ sở ở các làng nghề thủ công do vậy chất lượng tái chế thấp, không đạt quy cách tái chế như quy định nêu trên. Hầu hết các công ty sản xuất đồ hộp, nước đóng chai phải nhập khẩu nhôm hoặc lon nhôm hoặc phôi của chai nhựa PET để sản xuất sản phẩm của mình.
Từ đó cho thấy, tỷ lệ tái chế được quy định trong dự thảo Nghị định hiện nay là thấp so với mặt bằng của một số nước tại thời điểm áp dụng (cách đây 20 - 30 năm) và bảo đảm tính khả thi trong điều kiện thực tiễn ở Việt Nam.
Về thời điểm thực hiện trách nhiệm của nhà sản xuất
Thời điểm thực hiện trách nhiệm tái chế theo quy định của Điều 54 Luật BVMT đã được lùi lại so với dự kiến tại dự thảo gửi lấy ý kiến vào tháng 6/2021, cụ thể: Bao bì và các sản phẩm ắc quy, pin; dầu nhớt; săm lốp: từ ngày 1/1/2024 (lùi lại 1 năm). Sản phẩm điện, điện tử: từ ngày 1/1/2025; (lùi lại 1 năm). Phương tiện giao thông: Từ ngày 1/1/2027 (lùi lại 2 năm). Việc lùi thời điểm thực hiện trách nhiệm này theo đề nghị của các doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp. Mặc dù quy định về thu hồi sản phẩm thải bỏ đã được quy định trong Luật BVMT năm 2005. Việc đề xuất thời điểm thực hiện trách nhiệm tái chế của nhà sản xuất, ngay từ đầu đã được căn cứ vào các yếu tố sau:
Mức độ sẵn sàng thực hiện trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu: Trong thời gian xây dựng Luật BVMT, ngay từ năm 2019, Bộ TN&MT đã tiến hành khảo sát, đối thoại với doanh nghiệp, đại diện của doanh nghiệp trong 6 ngành hàng thuộc diện phải thu gom, tái chế theo Điều 54 Luật BVMT 2020, thì đa số các nhà sản xuất đều thể hiện mức độ sẵn sàng thực hiện trách nhiệm của mình ngay khi Luật BVMT có hiệu lực thi hành, lúc đó dự kiến là giữa năm 2021. Trong quá trình xây dựng dự thảo Nghị định, đa phần các doanh nghiệp, đại diện doanh nghiệp đều đồng thuận với lộ trình như dự thảo 2 đăng trên cổng thông tin điện tử Chính phủ để lấy ý kiến rộng rãi nhân dân và gửi lấy ý kiến các bộ, ngành, tổ chức cá nhân.
Nhức nhối rác thải điện tử
Mức độ sẵn sàng của cơ sở hạ tầng thu gom, tái chế: Qua khảo sát thực tiễn và thực hiện điều tra, phỏng vấn chuyên gia, Bộ Tài nguyên và Môi trường nhận thấy cơ sở hạ tầng thu gom, tái chế hiện nay ở nước ta, đáp ứng việc thu gom tái chế với tỷ lệ thấp như quy định tại Phụ lục 8 dự thảo Nghị định (một số loại sản phẩm, bao bì có tỷ lệ thu gom cao hơn gấp 3 lần như chai nhựa PET, vỏ lon nhôm,… vẫn được thu gom, tái chế hiệu quả). Theo thống kê năm 2019, Việt Nam nhập khẩu 02 triệu tấn nhựa phế liệu, 08 triệu tấn sắt thép phế liệu và 06 triệu tấn giấy để tái chế. Theo đó, nếu so sánh thì tỷ lệ tái chế như Dự thảo Nghị định hiện nay thì còn thấp hơn rất nhiều lần so với khối lượng phế liệu nhập khẩu. Bên cạnh đó, qua tham khảo ý kiến của 71 doanh nghiệp tái chế được cấp phép nhập khẩu phế liệu (đây là các doanh nghiệp có nhà máy, công nghệ tái chế đáp ứng các yêu cầu về BVMT mà không tính các làng nghề tái chế) cho thấy các doanh nghiệp này đều khẳng định năng lực tái chế của Việt Nam cao hơn nhiều so với tỷ lệ tái chế quy định trong Dự thảo Nghị định. Ngày 22/7/2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án quản lý chất thải nhựa tại Quyết định số 1316/QĐ-TTg, trong đó đặt mục tiêu vào năm 2025 tái chế 85% chất thải nhựa. Theo đó, nếu tỷ lệ tái chế thấp như Dự thảo Nghị định và kéo dài lộ trình thực hiện thì không thể đạt được mục tiêu đặt ra.
Mức độ sẵn sàng của cơ quan quản lý nhà nước: Với việc thành lập Hội đồng EPR Quốc gia và Văn phòng giúp Việc Hội đồng EPR Quốc gia và Quỹ BVMT Việt Nam, thì cơ quan nhà nước có đủ năng lực để thực hiện quy định này ngay từ năm 2022.
Căn cứ vào yêu cầu BVMT cũng như mục tiêu tái chế quốc gia được xác định trong các chiến lược, quy hoạch, quyết định của Thủ tướng Chính phủ. (Tỷ lệ chất thải rắn được tái sử dụng, tái chế hoặc thu hồi năng lượng, sản xuất phân bón đạt 85% (Chiến lược Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030); đến năm 2025 xử lý 85% lượng chất thải nhựa phát sinh (Đề án tăng cường công tác quản lý chất thải nhựa ở Việt Nam).
Tình hình KT-XH của đất nước: Căn cứ vào sự phát triển KT-XH cũng như các khó khăn do đại dịch covid-19 gây ra, thời điểm thực hiện nghĩa vụ đã được lùi xuống từ 1 đến 2 năm như hiện nay.
Thực tế cho thấy, chất thải ở Việt Nam gia tăng nhanh hơn tốc độ phát triển của cơ sở hạ tầng và quản lý, tăng gấp đôi chỉ trong vòng chưa đầy môt năm. Hiện các bãi chôn lấp đã quá tải, việc xây dựng các bãi chôn lấp mới và lò đốt rác vừa tốn kém chi phí vừa gặp phải sự phản ứng của cộng đồng do lo ngại vấn đề ô nhiễm. Không chỉ người dân Nam Sơn bảy lần chặn xe chở rác lên bãi rác Nam Sơn, Hà Nội mà tình trạng này ngày càng phổ biến ở nhiều địa phương do người dân lo ngại ô nhiễm môi trường từ các bãi chôn lấp hay lò đốt rác. Trong khi đó, EPR giúp giảm tổng lượng chất thải bằng cách yêu cầu nhà sản xuất phải thu gom, tái chế, xử lý các sản phẩm, bao bì mà mình đã sản xuất. Việc làm này không chỉ giúp giảm lượng chất thải đưa ra các bãi chôn lấp thông qua việc nhà sản xuất tái chế chúng mà còn giúp thúc đẩy nhà sản xuất cải tiến các sản phẩm thân thiện hơn với môi trường, dễ thu gom, xử lý hơn qua đó, EPR giúp giảm được tổng lượng chất thải phát sinh cũng như phát thải trong quá trình tái chế và xử lý chúng. Với tỷ lệ tái chế bắt buộc thấp và thời điểm thực hiện trách nhiệm tái chế bị lùi lại như hiện nay thì nhiều tổ chức bảo vệ môi trường thông qua các ý kiến góp ý và hai lần gửi thư kiến nghị Chính phủ như IUCN, WWF, Trung tâm Hỗ trợ Phát triển xanh, Liên Minh không rác, Trung tâm con người và thiên nhiên, Hiệp hội nhựa Việt Nam,… cho rằng Việt Nam sẽ không đạt được mục tiêu tái chế đặt ra.
NGUYỄN THI
Vụ Pháp chế - Bộ Tài nguyên và Môi trường