Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường Đồng Tháp tổ chức chương trình “Truyền thông khai thác bền vững tài nguyên nước và bảo vệ môi trường xuyên biên giới”, diễn ra vào ngày 19/12 tại tỉnh Đồng Tháp.
Sự kiện được tổ chức nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về tài nguyên nước; đồng thời nâng cao nhận thức, năng lực thực thi của các Cơ quan quản lý, cộng đồng và các bên liên quan trong khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên nước và bảo vệ môi trường nước xuyên biên giới…
Phát biểu tại Hội thảo, ông Kiều Đăng Tuyết - Phó Tổng Biên tập Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường cho biết, Việt Nam hiện có khoảng 3.450 con sông, suối lớn nhỏ với chiều dài từ 10 km trở lên, tổng lượng nước mặt trung bình hằng năm khoảng 830 tỷ mét khối... Đây là nguồn tài nguyên quý giá, đóng vai trò nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm sinh kế và ổn định môi trường sinh thái. Tuy nhiên, có khoảng 63% tổng lượng nước mặt của Việt Nam được hình thành từ các lưu vực sông nằm ngoài lãnh thổ. Điều này cho thấy nguồn nước của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào các dòng sông xuyên biên giới, khiến công tác bảo đảm an ninh nguồn nước đứng trước nhiều rủi ro và thách thức phức tạp, khó lường.
Bên cạnh tác động của biến đổi khí hậu, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và gia tăng dân số… đang làm cho nhu cầu sử dụng nước cho sinh hoạt, sản xuất và kinh doanh tăng nhanh. Trong khi đó, tình trạng ô nhiễm nguồn nước chưa được kiểm soát triệt để, chất lượng nước tại nhiều lưu vực có xu hướng suy giảm, tạo áp lực ngày càng lớn đối với công tác quản lý, khai thác và bảo vệ tài nguyên nước.
Trước tình hình này, yêu cầu đặt ra là khai thác tài nguyên nước phải gắn chặt với bảo vệ môi trường nước, đặc biệt là môi trường nước xuyên biên giới, theo cách tiếp cận tổng hợp, bền vững và có trách nhiệm. Theo các điều khoản của Luật Tài nguyên nước năm 2023 đã thể hiện rõ tư duy đổi mới trong quản lý tài nguyên nước theo lưu vực sông, tăng cường phối hợp liên ngành, liên vùng và hợp tác quốc tế… Tuy nhiên, để các quy định pháp luật đi vào thực tiễn, yếu tố truyền thông, nâng cao nhận thức và năng lực thực thi giữ vai trò hết sức quan trọng, ông Kiều Đăng Tuyết nhấn mạnh.
Thông tin tại sự kiện, bà Bùi Thị Thiên Trúc - đại diện Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đồng Tháp trình bày các nội dung chính về công tác bảo vệ môi trường và quản lý chất lượng nước mặt trên địa bàn Tỉnh, như bối cảnh và vai trò của nguồn nước mặt; thực trạng công tác bảo vệ môi trường và quản lý chất lượng nước mặt; những khó khăn, thách thức đặt ra; định hướng, giải pháp trong thời gian tới gắn với yêu cầu khai thác bền vững tài nguyên nước xuyên biên giới...
Đồng Tháp là tỉnh đầu nguồn của ĐBSCL, có vị trí địa lý đặc thù khi nằm trọn trong lưu vực sông Tiền - một nhánh chính của hệ thống sông Mê Kông. Mạng lưới sông, kênh, rạch trên địa bàn tỉnh dày đặc, đóng vai trò huyết mạch trong phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, cấp nước sinh hoạt, giao thông thủy và duy trì các hệ sinh thái đất ngập nước đặc trưng (như Vườn quốc gia Tràm Chim, Khu bảo tồn sinh thái Đồng Tháp Mười...). Hiện, nguồn nước mặt của tỉnh Đồng Tháp không chỉ chịu tác động từ các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội trong nội tỉnh, mà còn chịu ảnh hưởng trực tiếp từ chế độ dòng chảy, chất lượng nước từ thượng nguồn sông Mê Kông, gắn liền với yếu tố xuyên biên giới... Do đó, công tác bảo vệ môi trường và quản lý chất lượng nước mặt tại Đồng Tháp luôn được đặt trong mối quan hệ tổng thể, liên vùng, liên quốc gia.
Bà Trúc thông tin, về công tác quản lý nhà nước và hoàn thiện thể chế trong những năm qua, tỉnh Đồng Tháp đã quan tâm chỉ đạo triển khai đồng bộ các quy định của Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản hướng dẫn thi hành… Việc lập, rà soát, cập nhật các quy hoạch, kế hoạch liên quan đến tài nguyên nước, bảo vệ môi trường được thực hiện theo hướng tích hợp, phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương và quy hoạch vùng ĐBSCL. Bên cạnh đó, các hoạt động khai thác, sử dụng nước mặt, xả nước thải vào nguồn nước được tăng cường quản lý thông qua cơ chế cấp phép, kiểm tra, giám sát và hậu kiểm. Đồng thời, Tỉnh chú trọng lồng ghép mục tiêu bảo vệ chất lượng nước mặt vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản và công nghiệp chế biến.
Về quan trắc, giám sát chất lượng nước mặt, Đồng Tháp đã từng bước xây dựng và duy trì mạng lưới quan trắc chất lượng nước mặt trên các tuyến sông, kênh chính, tập trung vào sông Tiền và các khu vực nhạy cảm về môi trường... Kết quả quan trắc là cơ sở quan trọng để đánh giá diễn biến chất lượng nước, kịp thời cảnh báo các nguy cơ ô nhiễm, phục vụ công tác quản lý, điều hành và cung cấp thông tin cho cộng đồng… cơ bản đáp ứng yêu cầu cho các mục đích sử dụng chính. Tuy nhiên, tại một số thời điểm, một số khu vực cục bộ vẫn ghi nhận dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, đặc biệt là tại các đoạn sông, kênh tiếp nhận nước thải sinh hoạt, nước thải từ hoạt động sản xuất, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản.
Đối với công tác kiểm soát nguồn thải và bảo vệ môi trường nước, tỉnh Đồng Tháp đã tăng cường kiểm soát các nguồn thải vào nguồn nước, yêu cầu các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thực hiện các biện pháp xử lý nước thải đạt quy chuẩn trước khi xả thải. Công tác thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường được triển khai định kỳ và đột xuất, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp và người dân… Bên cạnh đó, tỉnh chú trọng các giải pháp phi công trình như tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ nguồn nước, khuyến khích mô hình sản xuất nông nghiệp thân thiện với môi trường, giảm phát thải, giảm sử dụng hóa chất nông nghiệp, hướng tới nông nghiệp sinh thái, tuần hoàn.
Trong khuôn khổ Hội thảo, các đại biểu đã tập trung thảo luận nhiều nội dung trọng tâm, như vai trò của Quản lý tổng hợp tài nguyên nước (IWRM) trong khai thác bền vững tài nguyên nước xuyên biên giới; những tác động của Biến đổi khí hậu đến an ninh nguồn nước và môi trường nước xuyên biên giới; các vấn đề môi trường nước xuyên biên giới và thách thức đối với quản lý quốc gia; ứng dụng khoa học và công nghệ trong chuẩn hoá cơ sở dữ liệu và mô hình số AI giám sát, cảnh báo nguồn nước và bảo vệ môi trường xuyên biên giới… Những tham luận chuyên sâu đã làm rõ mối liên hệ giữa bảo vệ môi trường nước với phát triển kinh tế bền vững, trong đó nhấn mạnh các mô hình thích ứng hiệu quả với điều kiện nguồn nước biến đổi, như mô hình nông nghiệp, thủy sản tôm - lúa tại ĐBSCL.
Trong phần tham luận về việc thực hiện quản lý tổng hợp tài nguyên nước trong khai thác bền vững tài nguyên nước xuyên biên giới, PGS, TS. Trần Đăng An - Giảng viên cao cấp, Đại học Thuỷ Lợi phân hiệu TP. Hồ Chí Minh chia sẻ, dòng chảy vùng hạ lưu sông Mê Kông đóng vai trò rất quan trọng, là nơi cung cấp khoảng 10 - 50% tổng lượng nước về ĐBSCL vào mùa khô, đồng thời điều tiết nguồn nước từ Biển Hồ về ĐBSCL giảm đến 25% (còn theo dự báo thì trong vòng 10 - 20 năm tới giảm tới hơn 30%)… Nên việc thực hiện IWRM là một quá trình thúc đẩy phát triển và quản lý một cách phối hợp các nguồn tài nguyên nước, đất đai và các tài nguyên liên quan, nhằm tối đa hóa lợi ích kinh tế và xã hội một cách công bằng, đồng thời không làm tổn hại đến tính bền vững của các hệ sinh thái thiết yếu.
Trước thực tế cho thấy, hiện trạng cho thấy ĐBSCL đang suy giảm nhanh “nền tảng tài nguyên nước” do dòng chảy mùa kiệt giảm và biến động, xâm nhập mặn sâu, giảm phù sa - tăng sạt lở, kèm ô nhiễm cục bộ và khai thác nước ngầm quá mức… dẫn đến suy yếu an ninh nước và hệ sinh thái. Từ đó đã tạo nên những thách thức, rủi ro ngày càng lớn, vì tác động cộng hưởng của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, điều tiết/khai thác thượng nguồn xuyên biên giới, và quản trị liên ngành, liên tỉnh chưa đồng bộ… PGS, TS. Trần Đăng An đưa ra khuyến nghị, để quản lý lưu vực sông hiệu quả, Việt Nam cần chuyển từ quản lý theo địa giới hành chính sang quản lý theo lưu vực, với một đầu mối đủ thẩm quyền, khung pháp lý ràng buộc, dữ liệu dùng chung, công cụ kinh tế - chế tài mạnh và vận hành linh hoạt theo rủi ro, sự kiện.
Phần tham luận của PGS, TS. Nguyễn Văn Hồng - Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi khí hậu nói về những tác động của Biến đổi khí hậu đến an ninh nguồn nước và môi trường nước xuyên biên giới cho biết, toàn quốc hiện có 108 lưu vực sông với tổng diện tích khoảng 1.167.000 km2, diện tích lưu vực ngoài lãnh thổ vào khoảng 72%, tổng lượng nước mặt vào khoảng 840 tỷ m3/năm, tập trung chủ yếu trên các lưu vực lớn... Hiện tại tài nguyên nước của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nước từ nước ngoài, trong khí đó trữ lượng tiềm năng nguồn nước dưới đất vào khoảng 48,5 tỷ m3/năm (khoảng 5,7% lượng nước mặt). Với lưu lượng trung bình năm khoảng 12.900m3/s (khoảng 5% được sinh ra tại vùng ĐBSCL). Tiềm năng nước ngầm xấp xỉ 22,5 triệu m3/ngày đêm. Theo tính toán thì tổng dòng chảy mùa lũ và mùa cạn có xu thế giảm...
Tại tham luận này, ông PGS, TS. Nguyễn Văn Hồng đưa ra một số thách thức về an ninh nguồn nước và môi trường, như phụ thuộc nhiều vào các sông từ nước ngoài, tiềm ẩn rủi ro về chia sẻ nguồn nước, có tới 62% tổng lượng dòng chảy đến từ ngoài lãnh thổ Việt Nam (sông Mê Kông 95%, sông Hồng 45%); nguồn nước phân bố không đều theo thời gian và không gian, mất cân đối giữa nhu cầu dùng nước với khả năng trữ nước, tổng lượng nước mặt phân bố chủ yếu cho 3 vùng ĐBSCL (60%), ĐBSH và sông Đồng Nai (20%); phát triển kinh tế, gia tăng dân số dẫn đến nhu cầu dùng nước tăng, làm suy giảm nguồn nước, ô nhiễm môi trường trầm trọng; tác động của biến đổi khí hậu, suy giảm thảm thực vật nghiêm trọng, đặc biệt là rừng đầu nguồn và rừng ngập mặn làm gia tăng các loại hình thiên tai; công tác quản lý và khai thác, sử dụng tài nguyên nước còn nhiều bất cập, ý thức trách nhiệm về sử dụng hiệu quả và tiết kiệm nước chưa cao…
Đồng thời, cũng cần có một số giải pháp công trình và phi công trình, như đảm bảo an toàn, phát huy đầy đủ công năng của hệ thống công trình thủy lợi như ứng dụng các tiến bộ KH&CN nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống hồ, đập với đa số đã bị xuống cấp; giải pháp quản lý nước thông minh, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước; giải pháp bảo vệ và phục hồi thảm thực vật, đặc biệt chú trọng rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn ven biển; các giải pháp trữ nước, điều tiết, chuyển nước cho các vùng khó khăn về nước; nâng cao nhận thức về tài nguyên nước, tổ chức quản lý và khai thác nguồn nước; xây dựng đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật…
Riêng phần tham luận của PGS, TS. Trần Ngọc Anh - Trường Đại học Khoa học Tự Nhiên Hà Nội về định hướng xây dựng mạng lưới giám sát biến động nguồn nước trên các lưu vực sông xuyên biên giới, cụ thể là trường hợp của sông Mã và sông Cả… Theo ông, hiện trạng các vấn đề tài nguyên nước xuyên biên giới hiện nay đang rất cấp bách và ngày càng quan trọng, các nguồn nước thuộc lưu vực sông lớn xuyên quốc gia có tác động sâu rộng đến an ninh nguồn nước và sự ổn định trong khu vực; tính cấp thiết của việc quản lý tài nguyên nước xuyên biên giới; tổng lượng nước tương đối lớn tập trung chủ yếu ở hệ thống sông Cửu Long; khai thác tài nguyên nước giữa các quốc gia thượng lưu và hạ lưu; biến đổi khí hậu; cách tiếp cận lưu vực sông xuyên biên giới; dữ liệu và ứng dụng công nghệ hiện đại…
PGS, TS. Trần Ngọc Anh đưa ra các mục tiêu cụ thể, cung cấp luận cứ, cơ sở khoa học và thực tiễn để hỗ trợ xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đảm bảo an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước; phát triển, ứng dụng, chuyển giao được các công nghệ tiên tiến; quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nước phục vụ dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo an toàn, hiệu quả quản lý, khai thác đập, hồ chứa nước và công trình thủy lợi; xác lập các công nghệ tiên tiến để quan trắc, giám sát biến động dòng chảy; xây dựng và triển khai hệ thống xử lý dữ liệu tích hợp, giám sát gần thời gian thực (near real-time) về dòng chảy vả tải lượng bùn cát ảnh hưởng đến an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước (lưu vực sông Mã, sông Cả...).
Song song đó, tại Hội thảo, các ý kiến thảo luận đồng thời cũng được đặt ra như, giải pháp khoa học về quản lý bền vững tài nguyên nước một cách hiệu quả; dự báo của chính quyền địa phương về những rủi ro về sâm nhập mặn liên quan đến nguồn nước xuyên biên giới; các yếu tố chính gây ô nhiễm môi trường nước và an ninh nguồn nước; biến đổi khí hậu đã ảnh hưởng đến nguồn nước vùng ĐBSCL như thế nào; định hướng hiệu quả trong việc bảo vệ nước mặt của địa phương… Đại diện các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học cũng đã trao đổi, chia sẻ rất cụ thể, đồng thời khẳng định vai trò then chốt của công tác truyền thông trong việc nâng cao nhận thức cộng đồng, tạo sự đồng thuận xã hội và thúc đẩy trách nhiệm của các bên liên quan trong bảo vệ tài nguyên nước, đặc biệt là các nguồn nước xuyên biên giới.
Về hoạt động của địa phương đối với lĩnh vực ngành nông nghiệp và môi trường, ông Nguyễn Văn Kiệt - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đồng Tháp chia sẻ, công tác bảo vệ môi trường và quản lý chất lượng nước mặt của tỉnh Đồng Tháp vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, cụ thể là tác động từ thượng nguồn mang tính xuyên biên giới ngày càng rõ nét. Sự thay đổi chế độ dòng chảy, gia tăng khai thác nước, xây dựng các công trình thủy điện và sử dụng đất ở thượng nguồn sông Mê Kông… ảnh hưởng đến cả số lượng và chất lượng nước về hạ du, vượt ngoài khả năng kiểm soát của địa phương và áp lực từ phát triển kinh tế - xã hội trong tỉnh ngày càng gia tăng. Đồng thời, hoạt động sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, nuôi trồng thủy sản tập trung, đô thị hóa và gia tăng dân số đã và đang tạo áp lực lớn lên môi trường nước mặt, nhất là trong điều kiện hạ tầng thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt ở khu vực nông thôn còn hạn chế, nguồn lực cho công tác bảo vệ môi trường và quan trắc nước mặt còn hạn chế, trong khi yêu cầu về quản lý ngày càng cao, đòi hỏi ứng dụng công nghệ mới, hiện đại và sự phối hợp liên ngành, liên vùng chặt chẽ hơn…
Bên cạnh đó, đại diện Lãnh đạo Sở đã đưa ra những định hướng chung và một số giải pháp trọng tâm trong thời gian tới nhằm bảo đảm sinh kế cho người dân, phát triển kinh tế bền vững và giữ gìn môi trường cho các thế hệ mai sau… Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh, tiếp tục hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước và bảo vệ môi trường theo hướng tổng hợp, thống nhất, gắn quản lý chất lượng nước mặt với quản lý số lượng nước và hệ sinh thái; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, dữ liệu lớn trong theo dõi, cảnh báo sớm các nguy cơ ô nhiễm nguồn nước; kiểm soát chặt chẽ các nguồn thải vào nguồn nước, thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt tại các khu vực đô thị, khu dân cư tập trung ven sông, kênh rạch; đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng, phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường nước, nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp bền vững, thân thiện với môi trường; tăng cường hợp tác liên tỉnh, liên vùng và hợp tác quốc tế trong quản lý tài nguyên nước lưu vực sông Mê Kông, chủ động tham gia, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm trong các cơ chế hợp tác xuyên biên giới nhằm bảo vệ nguồn nước chung.
Hội thảo đồng thời là diễn đàn để các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học và cơ quan báo chí trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ cách làm hay trong truyền thông chính sách, từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp, hiệu quả, góp phần đưa các quy định của pháp luật về tài nguyên nước đi vào thực tiễn. Những ý kiến, khuyến nghị được nêu ra sẽ là cơ sở quan trọng để tiếp tục hoàn thiện công tác truyền thông về khai thác bền vững tài nguyên nước và bảo vệ môi trường nước xuyên biên giới, đóng góp thiết thực cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước và khu vực ĐBSCL.